TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 198/2023/KDTM-PT NGÀY 06/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
Ngày 06 tháng 09 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hà Nội, xét xử công khai vụ án Kinh doanh thương mại phúc thẩm thụ lý số: 109/2023/TLPT-KDTM ngày 25 tháng 4 năm 2023 về Tranh chấp Hợp đồng mua bán hàng hóa.
Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 65/2022/KDTM-ST, ngày 23 tháng 12 năm 2022 của Tòa án nhân dân Quận Hà Đông bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 476/2023/QĐ-PT ngày 20 tháng 7 năm 2023 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Công Ty C; ( gọi tắt Si) Trụ sở chính: Lô XN 46-4, khu công nghiệp Đ, phường T, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Sohn Byung H - Chức danh: Tổng Giám đốc;
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Hoàng Thị H, ông Bùi Đình H, ông Nguyễn Thành H – Địa chỉ: Tầng 5, tòa nhà Charmvit Tower, số 117, đường Trần Duy Hưng, phường TH, quận CG, thành phố Hà Nội (Theo hợp đồng ủy quyền số 158/2022/HĐUQ-SR ngày 01/6/2022).
Bị đơn: Công ty Cổ phần S6; ( gọi tắt S6) Trụ sở : Tầng 1 và tầng 2 tòa nhà TM, khu đô thị Văn Khê, phường La Khê, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Tiến T - Tổng Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Ngọc K ( Giấy ủy quyền số 19/2023/GUQ ngày 15/8/2023).
Si, S6 có Đơn xin xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
[1] Si trình bày:
Si và S6 ( Chi nhánh S6.01) đã cùng nhau ký kết 03 hợp đồng kinh tế số 01/SR- SD6.01/2017 ngày 01/01/2017, Hợp đồng kinh tế số 493/SR-SD6.01/2017 ngày 20/06/2017 và Hợp đồng kinh tế số 505/SR-SD6.01/2017 ngày 01/09/2017 về việc cung cấp chất phụ gia bê tông cho công trình thủy điện Sông Mã 3 và công trình thủy điện Nậm Ban 1, Lai Châu.
Quá trình thực hiện các hợp đồng, Si đã tiến hành giao hàng theo đúng yêu cầu về số lượng, chất lượng. S6, đã xuất hóa đơn theo số lượng, giá tiền. Tuy nhiên, S6 không thanh toán giá trị hợp đồng theo đúng thỏa thuận như trong các hợp đồng. Tổng giá trị tiền hàng là 2.204.300.000 đồng. S6 mới thanh toán 1.861.550.000 đồng.
Ngày 10/01/2019, các bên đã ký biên bản xác nhận công nợ của các hợp đồng nói trên. Ngày 14/12/2021, S6 có Công văn số 574/CV-TCKT về việc thanh toán công nợ cho khách hàng. Tổng giá trị công nợ của S6 còn phải thanh toán cho Si là 342.750.000 đồng (ba trăm bốn mươi hai triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng). Si đã nhiều lần yêu cầu thanh toán nhưng S6 vẫn không thực hiện việc thanh toán nợ.
Si yêu cầu Tòa án buộc S6 phải thanh toán toàn bộ số nợ gốc còn lại là: 342.750.000 đồng (ba trăm bốn mươi hai triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng) và tiền lãi suất chậm trả tính từ ngày 13/5/2019 tạm tính đến ngày 23/12/2022 là 194.544.900 đồng. Tổng số tiền S6 phải thanh toán là 537.294.900 đồng và còn phải tiếp tục phải chịu lãi cho đến khi thanh toán xong công nợ gốc.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt trực tiếp thông báo về việc thụ lý vụ án, yêu cầu cung cấp tài liệu chứng cứ cho S6. Tuy nhiên, S6 không gửi văn bản trình bày ý kiến trước yêu cầu khởi kiện của Si, không có yêu cầu phản tố đối với Si và không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì cho Tòa án.
Bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm số 65/2022/KDTM–ST, ngày 23 tháng 12 năm 2022 của Tòa án nhân dân Quận Hà Đông đã quyết định như sau:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn Công ty C đối với Bị đơn Công ty cổ phần S6 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”.
Buộc Công ty cổ phần S6 phải có trách nhiệm thanh toán cho cho Công ty C tổng số tiền: 537.294.900 đồng (năm trăm ba mươi bảy ngàn, hai trăm chín mươi tư ngàn, chín trăm đồng).
Trong đó bao gồm nợ gốc là 342.750.000 đồng (ba trăm bốn mươi hai ngàn, bảy trăm năm mươi ngàn đồng), lãi chậm thanh toán tính đến ngày 23/12/2022: 194.544.900 đồng (một trăm chín mươi tư ngàn, năm trăm bốn mươi bốn ngàn, chín trăm đồng).
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm 23/12/2022 cho đến khi thi hành án xong, Công ty cổ phần S6 còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền nợ gốc còn phải thi hành án theo mức lãi suất quá hạn do các bên thỏa thuận trong các hợp đồng kinh tế số 01/SR-SD6.01/2017 ngày 01/01/2017, Hợp đồng kinh tế số 493/SR-SD6.01/2017 ngày 20/06/2017 và Hợp đồng kinh tế số 505/SR-SD6.01/2017 ngày 01/09/2017, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thanh toán.
2. Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
- Công ty cổ phần S6 phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là 25.492.000 đồng (hai mươi lăm triệu, bốn trăm chín mươi hai ngàn đồng).
Công ty C không phải chịu án phí, được nhận lại số tiền tạm ứng án phí 12.059.000 đồng (mười hai triệu không trăm năm mươi chín ngàn đồng) theo biên lai số AA/2020/0010326 ngày 08/7/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hà Đông.
Bản án còn tuyên về quyền kháng cáo, quyền yêu cầu thi hành án của đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm:
- Công ty cổ phần S6 kháng cáo 1 phần bản án đề nghị giảm toàn bộ lãi.
Tại cấp phúc thẩm :
Si và S6 thống nhất thỏa thuận và đề nghị Tòa án ghi nhận nội dung sau:
S6 xác nhận còn nợ Si số tiền nợ gốc 342.750.000 đồng.
Ngày 31/8/2023 S6 đã trả cho Si số tiền 170.000.000 đồng vào tài khoản 0341001912578 của Si tại Ngân hàng TMCP N. S6 sẽ trả cho Si số tiền còn lại 172.750.000 đồng chậm nhất vào ngày 30/9/2023 vào tài khoản nêu trên của Si.
Trường hợp S6 không trả đúng hạn và đủ số tiền trên thì S6 phải trả cho Si số tiền lãi chậm trả 231.537.908 đồng.
Về án phí : Si , S6 đề nghị giữ nguyên số tiền án phí theo Bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội có quan điểm:
Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội tiến hành thụ lý và giải quyết vụ án theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đơn kháng cáo của S6 trong thời hạn Luật định và hợp lệ.
Tại cấp phúc thẩm Si và S6 thống nhất thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án, xét thấy sự thỏa thuận của hai bên là phù hợp pháp luật, nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điều 300, khoản 2 điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự sửa bản án sơ thẩm ghi nhận sự thỏa thuận của hai bên.
Về án phí : S6 phải chịu án phí phúc thẩm, án phí sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
- Về thủ tục tố tụng : Đơn kháng cáo của S6 trong thời hạn Luật định và hợp lệ.
Tại cấp phúc thẩm, Si và S6 đã thống nhất với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án và cùng có đơn xin xét xử vắng mặt, xét thấy yêu cầu xin xét xử vắng mặt của Si và S6 là phù hợp với khoản 2 điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt hai bên đương sự.
- Về Nội dung : Tại cấp phúc thẩm Si và S6 đã thống nhất với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án, xét thỏa thuận của hai bên là tự nguyện và phù hợp pháp luật nên căn cứ điều 300, khoản 2 điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử sửa án sơ thẩm ghi nhận sự tự nguyện của hai bên.
Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội là phù hợp với pháp luật.
Từ những nhận định trên!
Căn cứ điều 24, 50, 55, 306 Luật Thương mại.
Căn cứ khoản 4 điều 147, khoản 1 điều 148, khoản 2 điều 296 điều 300, khoản 2 điều 308, điều 313 Bộ luật tố tụng dân sự.
Căn cứ điều 26, khoản 5 điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
QUYẾT ĐỊNH
Xử : Chấp nhận kháng cáo của Công ty cổ phần S6.
Sửa Bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm số 65/2022/KDTM-ST, ngày 23 tháng 12 năm 2022 của Tòa án nhân dân Quận Hà Đông và quyết định như sau :
1/ Ghi nhận sự thỏa thuận của Công ty C và Công ty cổ phần S6 như sau:
Chấp nhận 1 phần yêu cầu khởi kiện của Công ty C đối với Công ty cổ phần S6 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”.
Công ty cổ phần S6 xác nhận còn nợ Công ty C số tiền nợ gốc 342.750.000 đồng.
Ngày 31/8/2023 Công ty cổ phần S6 đã trả cho Công ty C số tiền 170.000.000 đồng vào tài khoản 0341001912578 của Công ty C tại Ngân hàng TMCP N. Công ty cổ phần S6 sẽ trả cho Công ty C số tiền còn lại 172.750.000 đồng chậm nhất vào ngày 30/9/2023 vào tài khoản nêu trên của Công ty C.
Trường hợp Công ty cổ phần S6 không trả đúng hạn và đủ số tiền trên thì Công ty cổ phần S6 phải trả cho Công ty C số tiền lãi chậm trả 231.537.908 đồng.
2/ Về án phí:
- Công ty cổ phần S6 phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là 25.492.000 đồng và 2.000.000 đồng án phí phúc thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí nộp tại biên lai số 11191 ngày 17/3/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hà Đông, còn phải nộp 25.492.000 đồng Công ty C được nhận lại số tiền tạm ứng án phí 12.059.000 đồng (mười hai triệu không trăm năm mươi chín ngàn đồng) theo biên lai số AA/2020/0010326 ngày 08/7/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hà Đông.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày 06/9/2023.
Bản án 198/2023/KDTM-PT về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
Số hiệu: | 198/2023/KDTM-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 06/09/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về