TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG HỒ, TỈNH VĨNH LONG
BẢN ÁN 19/2024/DS-ST NGÀY 22/02/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
Ngày 22 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Hồ, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 308/2023/TLST - DS ngày 24 tháng 11 năm 2023 về “tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2024/QĐXXST - DS ngày 30 tháng 01 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Phan Thi D, sinh năm 1967 Địa chỉ: số I, khóm T, phường T, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long.
- Bị đơn: Ông Lê Văn H, sinh năm 1978 Bà Trần Ngọc D1, sinh năm 1979 Cùng địa chỉ: ấp A, xã A, huyện L, tỉnh Vĩnh Long.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Phan Thị D2 trình bày: Tôi là Đại lý thức ăn thủy sản của Công ty T1. Vợ chồng Lê Văn H và Trần Ngọc D1 là khách hàng mua thức ăn của tôi để nuôi cá lồng bè, Đại lý giao thức ăn đến cuối đợt khách hàng bán cá trả đủ tiền thức ăn của Đại lý. Nhưng đến ngày 12/11/2020 thì bên ông H và bà D1 bán cá không trả đủ tiền thức ăn cho tôi, sau đó tôi vẫn bán tiếp số nợ tăng dần lên kéo dài đến năm 2023 vào các ngày như sau :
- Lần 1: ngày 12/11/2020 còn nợ số tiền 184.870.000đ, - Lần 2: ngày 01/02/2021 còn nợ số tiền 248.365.000đ - Lần 3: ngày 07/5/2021 còn nợ tăng lên số tiền 360.430.000đ - Lần 4: ngày 30/8/2021 còn nợ tăng lên số tiền 388.455.000đ - Lần 5: ngày 14/01/2022 còn nợ tăng lên số tiền 805.055.000d - Lần 6: ngày 14/5/2022 còn nợ tăng lên số tiền 527.380.000đ - Lần 7: ngày 30/7/2022 còn nợ tăng lên số tiền 509.792.000đ - Lần 8: ngày 24/2/2023 còn nợ tăng lên số tiền 805.267.000đ - Lần 9: ngày 07/8/2023 còn nợ tăng lên số tiền 803.267.000đ Nay tôi yêu cầu buộc vợ chồng Lê Văn H và Trần Ngọc D1 phải có trách nhiệm trả cho tôi một lần số tiền vốn 803.267.000đ (T trăm lẻ ba triệu, hai trăm sáu mươi bảy nghìn đồng) Bị đơn ông Lê Văn H và bà Trần Ngọc D1 trình bày:
Vợ chồng tôi có giao dịch mua thức ăn thủy sản của bà Phan Thị D2 để nuôi cá lồng bè với hình thức vợ chồng tôi thả nuôi xoay vòng đồng vốn, mua lần trước nuôi cá lớn, bán cá trả tiền đủ, tiếp tục nuôi đợt cá khác theo hình thức trên gần 10 năm. Trong thời gian dịch bệnh kéo dài do làm ăn thua lỗ, nuôi cá bị chết, thức ăn lên giá, giá cá sụt, kinh tế gia đình gặp khó khăn không có tiền để trả lại cho bà D2. Từ năm dịch bệnh đến năm 2023 cộng dồn đến ngày 07/8/2023 thì bà D2 ngưng không giao tiếp thức ăn thủy sản cho vợ chồng tôi để nuôi cá nữa, vợ chồng tôi gặp rất nhiều khó khăn, nên vợ chồng tôi phải đi mua thiếu thức ăn nơi khác để cho cá đang nuôi dở dang ăn tiếp. Sau đó bán cá trả nợ cho chủ đã mua thiếu đợt vừa rồi, nên không có khả năng trả tiền tiếp cho bà D2 nữa. Vợ chồng tôi thừa nhận, kết sổ đến ngày 07/8/2023 còn nợ tiền thức ăn thủy sản của bà Phan Thị D2 số tiền 803.267.000đ đến nay chưa trả. Nay vợ chồng tôi thừa nhận còn nợ bà Phan Thị D2 số tiền 803.267.000đ (Tám trăm lẽ ba triệu, hai trăm sáu mươi bảy nghìn đồng), vợ chồng tôi đồng ý trả cho bà D2 số tiền 803.267.000đ, nhưng xin được trả dần mỗi tháng 1.000.000đ cho đến khi hết nợ, vì vợ chồng tôi còn phải làm mướn nuôi hai con nhỏ.
- Ý kiến của nguyên đơn tại tòa, bà Phan Thị D2 trình bày: Tôi vẫn giữ nguyên yêu cầu ông Lê Văn H và bà Trần Ngọc D1 có trách nhiệm trả một lần số tiền 803.267.000 đồng (tám trăm lẻ ba triệu hai trăm sáu mươi bảy nghìn đồng) và không chấp nhận yêu cầu trả số tiền trên theo hình thức trả dần mỗi tháng 1.000.000đồng cho đến khi hết nợ của ông H và bà D1. Tôi không yêu cầu tính lãi số nợ, nhưng sau ngày toà xử nếu không trả nợ thì phải chịu lãi suất theo pháp luật quy định.
Tôi bán thức ăn nuôi cá điều hồng cho ông H và bà D1 chứ không bán thức ăn nuôi cá chốt. Ông H và bà D1 bán cá điêu hồng xong không trả tiền thức ăn cho tôi mà tiếp tục đi nuôi 05 lồng cá chốt. Lúc đó, số tiền nợ tôi là khoảng 500.000.000 đồng. Nếu cá chốt giống của 5 lồng là khoảng 500.000.000 đồng, nên tôi vào thế kẹt phải giao tiếp thức ăn để cho phía ông H, bà D1 bán cá chốt trả tiền cho tôi. Số tiền nợ lên khoảng 1,2 tỷ đồng vào thời điểm ông H, bà D1 bán cá chốt nhưng ông H, bà D1 chỉ trả cho tôi khoảng 400.000.000 đồng, nợ lại tôi 803.267.000 đồng cho đến ngày hôm nay. Sau khi tất toán nợ phía ông H, bà D1 nuôi cá vẫn có lời nhưng không trả cho tôi. Ngày ông H, bà D1 bán cá tôi có đòi tiền nhưng ông H, bà D1 trả lời tôi là sẽ trả nhưng không thực hiện lời hứa, bà D1 còn nói “con đang đưa ba, má con ra sân bay về sẽ trả”.
- Ý kiến của bị đơn tại tòa, ông Lê Văn H và bà Trần Ngọc D1 trình bày: Chúng tôi đồng ý còn nợ số tiền 803.267.000đồng (tám trăm lẻ ba triệu hai trăm sáu mươi bảy nghìn đồng) của bà Phan Thị D2. Tuy nhiên chúng tôi xin được trả số tiền trên theo hình thức trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi hết nợ, vì vợ chồng chúng tôi còn phải làm mướn nuôi hai con nhỏ. Chúng tôi nợ chị D2 hơn 1.000.000.000 đồng đã trả được hơn 400.000.000 đồng nên khi tất toán nợ còn lại 803.267.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, hội đồng xét xử nhận định.
[1] Về tố tụng:
Đây là vụ tranh chấp về hợp đồng mua bán tài sản thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, được quy định tại khoản 3 điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với họ và tên của bị đơn Trần Ngọc D1, trong đơn khởi kiện nguyên đơn ghi Trần Ngọc D3 là không chính xác. Trong quá trình thụ lý vụ án bà Trần Ngọc D1 đã xác định tên đúng của bà là Trần Ngọc D1, nguyên đơn cũng đã sửa chữa nội dung này. Hội đồng xét xử xác định tên đúng của bị đơn là Trần Ngọc D1, sinh năm 1979, địa chỉ: ấp A, xã A, huyện L, tỉnh Vĩnh Long và tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
[2] Về nội dung:
[2.1] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Hội đồng xét xử thấy rằng: Ông Lê Văn H và bà Trần Ngọc D1 thừa nhận còn nợ bà Phan Thị D2 số tiền 803.267.000 đồng. Do đó, yêu cầu của bà Phan Thị D2 là có căn cứ.
[2.2] Đối với số tiền 803.267.000 đồng mà ông Lê Văn H và bà Trần Ngọc D1 nợ của bà Phan Thị D2 là số tiền mua thức ăn chăn nuôi thủy sản, ông H và bà D1 dùng để chăn nuôi cá lồng bè, bà D2 có yêu cầu ông H và bà D1 trả một lần với số tiền 803.267.000đồng. Ông Lê Văn H và bà Trần Ngọc D1 không đồng ý với yêu cầu của bà D2 là trả 01 lần và có yêu cầu trả dần số tiền trên mỗi tháng 1.000.000 đồng đến khi hết nợ. Xét yêu cầu trả dần số tiền nợ của ông H và bà Dl, Hội đồng xét xử thấy rằng: quyền cho trả nợ dần là quyền của chủ nợ, bà D2 không đồng ý yêu cầu này; pháp luật cũng không có quy định việc trả dần số nợ nên Hội đồng xét xử không chấp nhận. Do đó, ông Lê Văn H và bà Trần Ngọc D1 phải có nghĩa vụ trả số tiền 803.267.000 đồng của bà Phan Thị D2.
[2.3] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm và án phí số tiền 803.267.000 đồng được tính như sau: 36.000.000đ +( 3.267.000 x 3%) = 36.098.010 đồng làm tròn là 36.098.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 351, Điều 357, Điều 430 và Điều 440 Bộ luật dân sự;
Căn cứ Điều 26 và Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 26 và Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Phan Thị D2.
1/ Buộc ông Lê Văn H và bà Trần Ngọc D1 phải có nghĩa vụ trả cho bà Phan Thị D2 số tiền 803.267.000 đồng (tám trăm lẻ ba triệu hai trăm sáu mươi bảy nghìn đồng)
2/ Về án phí: Buộc ông Lê Văn H và bà Trần Ngọc D1 phải nộp 36.098.000 đồng (ba mươi sáu triệu không trăm chín mươi tám nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả cho bà Phan Thị D2 số tiền tạm ứng án phí 18.049.000 đồng theo lai thu số 0000595 ngày 24 tháng 11 năm 2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Hồ.
3/ Kể từ ngày bà Phan Thị D2 có đơn yêu cầu thi hành án, khoản tiền nợ ông Lê Văn H và bà Trần Ngọc D1 chậm thực hiện nghĩa vụ thì hằng tháng phải chịu lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
4/ Án xử sơ thẩm công khai đương sự có mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 19/2024/DS-ST về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
Số hiệu: | 19/2024/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Long Hồ - Vĩnh Long |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 22/02/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về