TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NINH KIỀU, THÀNH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 14/2023/KDTM-ST NGÀY 16/06/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
Trong ngày 16 tháng 6 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 10/2022/TLST-KDTM, ngày 19 tháng 4 năm 2022 về tranh chấp Hợp đồng mua bán hàng hóa. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 163/2023/QĐXXST-KDTM ngày 20/3/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 105/2023/QĐST-KDTM, ngày 17/5/2023, các đương sự:
Nguyên đơn: Công ty TNHH Đ1 Địa chỉ: C H, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.
Đại diện theo pháp luật: Ông Đào Đức Đ - Giám đốc Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Minh T; Ông Hồ Hiếu T1 Địa chỉ: 2 H, KV4 phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.
Bị đơn:
1. Công ty TNHH MTV T3 (Công ty T3) Địa chỉ: B Tổ H, KV2, phường B, quận C, thành phố Cần Thơ.
Đại diện theo pháp luật: Ông Trương Văn C Địa chỉ: Ấp T, thị trấn M, huyện C, tỉnh Hậu Giang.
2. Ông Lê Đình T2 Địa chỉ: Ấp T, thị trấn M, huyện C, tỉnh Hậu Giang.
(Đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn có yêu cầu giải quyết vắng mặt; Bị đơn Công ty TNHH MTV T3 và bị đơn ông Lê Đình T2 vắng mặt không lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn trình bày như sau:
Vào ngày 02 tháng 01 năm 2020, Công ty Đ1 có ký Hợp đồng mua bán với Công ty T3, Hợp đồng mua bán số 024/HĐMB.2020.
Hợp đồng này do ông Lê Đình T2, tự xưng là chủ sở hữu kiêm giám đốc công ty đứng ra ký kết. Do có quen biết với ông T2 và thấy ông T2 cũng có đem theo con dấu công ty nên Công ty Đ1 và ký kết hợp đồng.
Sau khi ký Hợp đồng, hai bên tiến hành trao đổi mua bán hoàn toàn thuận lợi. Về sau, Công ty T3 không thực hiện đúng với quy định của Hợp đồng về thanh toán công nợ cho Công ty Đ1.
Tại Biên bản đối chiếu và xác nhận nợ của Công ty Đ1 và Công ty T3 vào ngày 30/11/2021, thể hiện Công ty T3 còn nợ Công ty Đ1 số tiền là: 298.225.345đ (Hai trăm chín mươi tám triệu hai trăm hai mươi lăm nghìn ba trăm bốn mươi lăm đồng). Trong đó:
- Tiền hàng quá hạn đến ngày 30/11/2021 là: 274.120.204đ (Hai trăm bảy mươi bốn triệu một trăm hai mươi nghìn hai trăm lẻ bốn đồng).
- Tiền lãi của nợ quá hạn đến ngày 30/11/2021 là: 24.105.141đ (Hai mươi bốn triệu một trăm lẻ năm nghìn một trăm bốn mươi mốt đồng). Từ ngày 01/12/2021 đến ngày 20/12/2021 với lãi suất 1%/tháng trên số nợ gốc: 274.120.204đ. Tổng số tiền lãi là: 25.841.235đ (Hai mươi lăm triệu tám trăm bốn mươi mốt nghìn hai trăm ba mươi lăm đồng).
Và yêu cầu tiếp tục tính lãi suất quá hạn: 1%/tháng trên số nợ gốc 274.120.204đ từ ngày 21/12/2021 cho đến khi trả xong nợ.
Do bị đơn lẫn tránh nhằm kéo dài nghĩa vụ trả nợ nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả số tiền công nợ và tiền lãi ở trên.
Quá trình giải quyết, nguyên đơn có thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện:
Do ông Lê Đình T2 không phải là Đại diện theo pháp luật của Công ty T3, mà là ông Trương Văn C. Tuy nhiên, Công ty Đ1 chỉ làm việc với ông T2, chưa từng làm việc với ông C và cũng không biết ông C là ai.
Vì vậy, Công ty Đ1 yêu cầu giải quyết: Buộc Công ty T3 và ông Lê Đình T2 liên đới trả số tiền công nợ là 274.120.204đ và số tiền lãi quá hạn tính đến ngày 20/12/2021 là 25.841.235đ (Hai mươi lăm triệu tám trăm bốn mươi mốt nghìn hai trăm ba mươi lăm đồng). Làm tròn bằng: 25.842.000đ (Hai mươi lăm triệu tám trăm bốn mươi hai nghìn đồng) và yêu cầu tiếp tục tính lãi suất quá hạn: 1%/ tháng từ ngày 21/12/2021 cho đến khi trả xong số nợ trên.
Tại đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt ngày 16/6/2023, đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện buộc Công ty T3 và ông Lê Đình T2 liên đới trả số tiền công nợ là: 274.120.204đ và số tiền lãi quá hạn tạm tính đến ngày 16/6/2023 là 75.456.993 đồng.
- Các bị đơn Công ty TNHH MTV T3 và ông Lê Đình T2 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để giải quyết vụ kiện nhưng vắng mặt và cũng không có văn bản thể hiện ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Do đó, căn cứ Điều 207 Bộ luật Tố Tụng Dân sự, vụ kiện thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được.
Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều tiến hành đưa vụ án ra xét xử.
Vụ án được xét xử công khai.
Tại phiên tòa:
- Đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn có yêu cầu giải quyết vắng mặt, và có văn bản trình bày ý kiến như trên.
- Bị đơn Công ty TNHH MTV T3 và ông Lê Đình T2 vắng mặt không lý do, cũng như không có văn bản phản hồi, nên không rõ ý kiến.
Tòa án căn cứ vào Điều 238 của Bộ luật tố tụng Dân sự, xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.
Chủ tọa công bố đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt của đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn; Công bố tóm tắt nội dung vụ án, lời trình bày của các bên; Công bố các chứng cứ do đương sự cung cấp và chứng cứ do tòa án thu thập.
Hội đồng xét xử thảo luận về các vấn đề của vụ án;
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Tòa án xác định đúng quan hệ tranh chấp “Tranh chấp Hợp đồng mua bán hàng hóa”. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều.
Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện đủ các quy định của Điều 26 về thẩm quyền giải quyết vụ án, Điều 68 về tư cách tham gia tố tụng; từ Điều 93 đến Điều 97, Điều 195, Điều 196 Bộ luật TTDS về trình tự thụ lý, việc giao nhận thông báo thụ lý cho VKS và đương sự.
Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, thư ký đã thực hiện đầy đủ trình tự, thủ tục theo luật định.
Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật TTDS. Tuy nhiên bị đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ hên quan mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt.
Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các chứng cứ do các đương sự cung cấp, chứng cứ do Tòa án đã thu thập và lời trình bày của đương sự.
Kiểm sát viên đề nghị: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông Lê Đình T2 trả công nợ gốc là 274.120.204đ và số tiền lãi quá hạn phát sinh tạm tính đến ngày 16/6/2023 là 75.456.993 đồng cho nguyên đơn là Công ty TNHH Đ1.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng và quan hệ tranh chấp:
Căn cứ lời trình bày về mục đích giao dịch giữa nguyên đơn và bị đơn, căn cứ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; địa chỉ của các đương sự; thỏa thuận của các đương sự về nơi giải quyết tranh chấp tại hợp đồng mua bán đã ký kết; Tòa án xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án là “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án nhân dân quận Ninh Kiều theo Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn có yêu cầu giải quyết vắng mặt; Bị đơn Công ty TNHH MTV T3 và ông Lê Đình T2 đã được tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định, nhưng vẫn liên tục vắng mặt không lý do và không có ý kiến phản hồi. Vì vậy căn cứ Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.
Căn cứ vào khoản 4 Điều 91 Bộ luật Tố tụng Dân sự thì các bị đơn Công ty TNHH MTV T3 và ông Lê Đình T2 đã tự từ bỏ quyền được chứng minh của mình qua việc không đến tòa án tham gia tố tụng, không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh về việc phản bác hay chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Các đương sự phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại các Điều 6; Điều 24; Điều 91 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[2] Về nội dung vụ án:
1.1 Đối với yêu cầu buộc Công ty T3 và ông Lê Đình T2 liên đới trả số tiền công nợ là 274.120.204 đồng và lãi xuất phát sinh 1%/tháng/số tiền nợ gốc cho đến khi thanh toán hết nợ:
Căn cứ vào lời trình bày của đại diện nguyên đơn, các chứng cứ do nguyên đơn cung cấp và chứng cứ đã thu thập được, thấy rằng:
Tại Hợp đồng mua bán hàng hóa ngày 02/01/2020 giữa Công ty TNHH Đ1 và Công Ty TNHH MTV T3, có chữ ký đại diện bên mua là ông Lê Đình T2 và đóng dấu Công Ty TNHH MTV T3. Công văn số 779, ngày 30/01/2023, Phòng đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và đầu tư TP Cần Thơ, xác định người đại diện theo pháp luật của Công Ty TNHH MTV T3 là ông Trương Văn C;
Căn cứ vào kết quả trả lời của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận C ngày 05/4/2023, trong đó đính kèm Quyết định số 01-QĐ/2018, Về việc Bổ nhiệm Giám đốc điều hành công ty; nội dung bổ nhiệm ông Lê Đình T2, sinh ngày 11/10/968, là Giám đốc điều hành Công ty TNHH MTV T3, quy định về quyền và nghĩa vụ của ông T2; Do ông Trương Văn C ký tên và có đóng dấu Công ty TNHH MTV T3. Tuy nhiên, văn bản này chỉ là bản photo.
Nguyên đơn trình bày tại Tờ tường trình ngày 24/5/2023, sau khi Cơ quan cảnh sát điều tra công an quận c đến làm việc với đại diện theo pháp luật nguyên đơn, thì nguyên đơn được ông Lê Đình T2 gửi quyết định nêu trên qua ứng dụng zalo, các bị đơn không hợp tác, vì vậy nguyên đơn không thể cung cấp được bản chính của quyết định nêu trên cho tòa án.
Bị đơn là Công ty TNHH MTV T3 và ông Lê Đình T2 vắng mặt, nên không biết ý kiến về vấn đề này như thế nào.
Hội đồng xét xử căn cứ vào các chứng cứ có tại hồ sơ để giải quyết vụ kiện.
Về trách nhiệm của Công ty TNHH MTV T3: Nguyên đơn cho rằng giữa nguyên đơn và Công ty TNHH MTV T3 mà đại diện là ông Lê Đình T2 có giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với nhau và thực tế đã có việc giao nhận hàng, chuyển khoảng thanh toán tiền hàng, dựa trên các Giấy báo có ngày 10/7/2020; ngày 03/8/2020; và Sao kê chi tiết giao dịch từ ngày 01/7/2020 đến ngày 31/8/2020 do Ngân hàng C1 chi nhánh T4 cung cấp; và xác nhận công nợ ngày 30/11/2021 (văn bản này đóng dấu Công Ty TNHH MTV T3 và chữ ký xác nhận của ông Lê Đình T2). Cũng tại hợp đồng mua bán hàng hóa ngày 02/01/2020 và xác nhận công nợ ngày 30/11/2021, giữa Công ty TNHH Đ1 và Công Ty TNHH MTV T3, mặc dù có đóng dấu Công Ty TNHH MTV T3, nhưng người ký đại diện bên mua không phải là đại diện theo pháp luật của công ty.
Bên nguyên đơn cũng xác nhận “Hợp đồng này do ông Lê Đình T2, tự xưng là chủ sở hữu kiêm giám đốc công ty đứng ra ký kết. Do có quen biết với ông T2 và thấy ông T2 cũng có đem theo con dấu công ty nên Công ty Đ1 và ký kết hợp đồng”. Và “Công ty Đ1 chỉ làm việc với ông T2, chưa từng làm việc với ông C và cũng không biết ông C là ai”.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy nguyên đơn yêu cầu buộc Công Ty TNHH MTV T3 số 274.120.204 đồng và lãi xuất phát sinh 1%/tháng/số tiền nợ gốc cho đến khi thanh toán hết nợ là không có căn cứ chấp nhận.
1.2 Đối với trách nhiệm của ông Lê Đình T2: Tại thời điểm giao kết hợp đồng và xác nhận công nợ, ông T2 ký tên trong hợp đồng và bên mua tại văn bản xác nhận công nợ mà không có chứng cứ gì thể hiện tư cách của mình là thay mặt cho Công Ty TNHH MTV T3. Ông T2 cũng đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của tòa án, nhưng không có ý kiến gì phản hồi là đồng ý hay không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Vì vậy ông T2 phải có trách nhiệm thanh toán cho nguyên đơn phần công nợ còn thiếu và lãi suất phát sinh như yêu cầu khởi kiện.
1.3 Đối với yêu cầu tính lãi suất phát sinh của nguyên đơn:
Bị đơn Lê Đình T2 còn nợ tiền hàng chưa thanh toán là có thật vì vậy nguyên đơn có quyền yêu cầu tính lãi phát sinh chậm trả là có căn cứ.
Mức lãi suất yêu cầu 1%/tháng/nợ gốc, tạm tính đến ngày 16/6/2023 là 75.456.993 đồng, và yêu cầu các bị đơn còn phải chịu lãi suất phát sinh 1%/tháng/nợ gốc cho đến khi trả xong số nợ trên, là phù hợp quy định tại Điều 357 Bộ Luật Dân sự, nên có cơ sở chấp nhận.
[3] Về án phí sơ thẩm và các chi phí khác:
- Ông Lê Đình T2 phải chịu án phí trên số tiền phải trả cho nguyên đơn.
- Nguyên đơn được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
[4] Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định.
[5] Đối với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:
Về việc tuân thủ, chấp hành theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và đương sự cũng như thẩm quyền thụ lý vụ án, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là có cơ sở, phù hợp với quy định của pháp luật.
Về nội dung giải quyết vụ án: Với những phân tích nêu trên về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên đề nghị của Kiểm sát viên về nội dung là có cơ sở chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
Điều 6; Điều 24; Khoản 3 Điều 26; Điều 35; Khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 180; Điều 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 430, Điều 440, Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015;
Căn cứ Khoản 1 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Q;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TNHH Đ1 đối với bị đơn là ông Lê Đình T2.
Tuyên bố:
- Buộc bị đơn là ông Lê Đình T2 có trách nhiệm trả cho nguyên đơn Công ty TNHH Đ1 tổng số tiền 349.577.197 đồng (Ba trăm bốn mươi chín triệu năm trăm năm mươi bảy nghìn một trăm chín mươi bảy đồng), trong đó:
- Tiền gốc là 274.120.204 (hai trăm bảy mươi bốn triệu một trăm hai mươi nghìn hai trăm lẻ bốn đồng).
- Lãi suất phát sinh do chậm thanh toán là 75.456.993 đồng (bảy mươi lăm triệu bốn trăm năm mươi sáu nghìn chín trăm chín mươi ba đồng).
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án), hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015.
2. Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
- Ông Lê Đình T2 phải chịu 17.478.000 đồng (mười bảy triệu bốn trăm bảy mươi tám nghìn đồng).
- Nguyên đơn được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã nộp là 7.625.000 (bảy triệu sáu trăm hai mươi lăm nghìn) đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số 0001624 ngày 15/02/2022 và 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số 0001108 ngày 18/5/2023, tại Chi cục thi hành án dân sự quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.
4. Quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 14/2023/KDTM-ST về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
Số hiệu: | 14/2023/KDTM-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 16/06/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về