Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 13/2022/KDTM-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 13/2022/KDTM-PT NGÀY 08/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

Ngày 08 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 67/2022/TLPT-KDTM ngày 30 tháng 5 năm 2022, về “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”.Do Bản án dân sự sơ thẩm số 23/2022/DS-ST ngày 14 tháng 4 năm 2022 của Toà án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 126/2022/QĐ-PT ngày 14 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Công ty Cổ phần Thương mại Tổng hợp MT.

Địa chỉ: Số ...., đường ...., phường HL, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.

Người đại diện theo pháp luật của Công ty: Ông Võ Nam H – Chức vụ:

Tổng Giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Mai Công N, sinh năm 1962, địa chỉ: Số ..., đường ..., phường AK, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ, theo văn bản ủy quyền lập ngày 10/9/2020 (có mặt).

- Bị đơn: Công ty TNHH QQ.

Địa chỉ: Số ...., đường LHP, phường ..., thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.

Người đại diện theo pháp luật của Công ty: Ông Phạm Thanh P – Chức vụ: Giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 1986, địa chỉ: Số ..., đường TCĐ, khóm ..., phường 2, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng, theo văn bản ủy quyền lập ngày 26/11/2021 (có mặt).

- Người kháng cáo: Công ty Trách nhiệm hữu hạn QQ là bị đơn trong vụ án.

- Kháng nghị: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 09/9/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Mai Công N trình bày:

Đầu tháng 8/2019, Công ty Cổ phần Thương mại Tổng hợp MT (viết tắt Công ty MT) có nguồn thanh lý, hàng tiêu dùng, hàng gia dụng điện máy bán cho Công ty TNHH QQ (viết tắt Công ty QQ). Từ ngày 08/6/2019 đến ngày 10/8/2019, Công ty MT xuất bán tổng cộng giá trị tiền hàng là 2.210.902.006 đồng cho Công ty QQ. Vì không bán được hàng nên từ ngày 12/10/2019 đến ngày 22/10/2019, Công ty QQ xuất trả lại cho Công ty MT tổng số hàng với trị giá 1.496.337.503 đồng và đã chuyển khoản thanh toán cho Công ty MT số tiền 210.000.000 đồng, sau khi đối chiếu vào ngày 28/10/2019 thì Công ty QQ còn nợ Công ty MT số tiền 504.564.503 đồng. Công ty MT đã đến và gửi văn bản yêu cầu Công ty QQ thanh toán nhiều lần nhưng Công ty QQ không trả lời. Vì vậy, Công ty MT khởi kiện yêu cầu Công ty QQ phải thanh toán số tiền còn nợ là 504.564.003 đồng và tiền lãi chậm thanh toán tạm tính từ ngày 28/10/2019 đến ngày 28/9/2020 là: 11 tháng x 504.564.503 đồng x 1,5%/tháng = 83.253.000 đồng. Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện của nguyên đơn thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện: Yêu cầu Công ty QQ trả số tiền nợ là 454.564.503 đồng (vì khấu trừ tiền chiết khấu 10% cho Công ty QQ) và tiền lãi từ ngày 28/10/2019 đến ngày 28/02/2022 là 190.680.000 đồng, tổng cộng vốn và lãi là 645.244.503 đồng.

Theo đơn phản tố đề ngày 03/11/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Nguyễn Thị Thu T trình bày:

Giữa Công ty QQ và Công ty MT có thỏa thuận thương mại hàng hóa. Theo chứng từ mua bán giữa hai công ty là: Tại chứng từ số 27 (Tổng hợp trả hàng) ghi Công ty QQ nhập hàng tổng giá trị 2.210.902.006 đồng và xuất trả hàng tổng giá trị 1.496.337.503 đồng, số tiền còn lại là 714.564.503 đồng, trong đó bao gồm: Giá trị hàng tiêu hủy và hết Date theo phiếu chứng từ số 31 là 4.301.181 đồng, giá trị hàng hết và cận Date nhờ Đại lý bán Sale 70% theo phiếu chứng từ số 32 là 92.494.503 đồng. Số tiền còn lại là 617.768.658 đồng, sau khi cấn trừ các khoản tiền: Tiền chiết khấu cho đối tác thương mại 45% là 277.995.896 đồng, thanh toán chi phí trực tiếp cho Công ty QQ theo chứng từ số 29 (bảng tổng hợp chi phí hỗ trợ Promat bán hàng) là 208.320.000 đồng, tiền Công ty QQ đã chuyển khoản thanh toán cho Công ty MT là 210.000.000 đồng. Như vậy, Công ty MT còn nợ lại Công ty QQ số tiền 50.798.839 đồng. Nay Công ty QQ phản tố yêu cầu giải quyết: Buộc Công ty MT phải trả cho Công ty QQ số tiền 50.798.839 đồng và tiền lãi chậm trả từ 28/10/2019 đến 29/02/2022 là: 50.798.839 đồng x 1,5%/tháng x 28 tháng = 21.335.512 đồng, tổng cộng số tiền vốn và lãi là 72.134.351 đồng.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 23/2022/DS-ST ngày 14 tháng 4 năm 2022, Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng đã quyết định:

“Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; các khoản 2, 4 Điều 91; khoản 2 Điều 92; khoản 1 Điều 147 của Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015;

Căn cứ: Điều 357; khoản 1 Điều 466, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Căn cứ các khoản 4, 5 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn Công ty cổ phần TM-TH ASC Miền Tây: Buộc bị đơn Công ty QQ phải có nghĩa vụ thanh toán cho nguyên đơn Công ty cổ phần TM-TH ASC Miền Tây tổng cộng số tiền vốn và lãi là 560.205.293 đồng (trong đó tiền vốn là 454.564.503 đồng, tiền lãi là 105.640.790 đồng).

- Không chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn Công ty cổ phần TM-TH ASC Miền Tây về việc buộc bị đơn Công ty QQ phải có nghĩa vụ thanh toán cho nguyên đơn Công ty cổ phần TM-TH ASC Miền Tây số tiền lãi là 85.039.210 đồng.

- Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn Công ty QQ về việc buộc nguyên đơn Công ty cổ phần TM-TH ASC Miền Tây phải trả tổng số tiền là: 50.798.839 đồng và tiền lãi chậm trả từ 28/10/2019 đến 29/02/2022, cụ thể như sau: 50.798.839 đồng x 1,5%/tháng x 28 tháng = 21.335.512 đồng. Tổng cộng 72.134.351 đồng.” Ngoài ra, trong bản án còn quyết định về nghĩa vụ chậm thi hành án, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 25-4-2022, người đại diện của Công ty QQ có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại theo trình tự thủ tục sơ thẩm theo hướng: Không chấp nhận nội dung khởi kiện của Công ty MT, chấp nhận yêu cầu phản tố của Công ty QQ.

Ngày 11/5/2022, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 11/QĐKNPT-VKS-DS đề nghị cấp phúc thẩm áp dụng khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự sửa một phần bản án sơ thẩm về số tiền án phí buộc Công ty QQ phải chịu chưa đúng với quy định tại điểm c tiểu mục 1.3 mục 1 phần II của danh mục án phí ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Ngoài ra, tại phiên tòa sơ thẩm người đại diện của nguyên đơn có thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện về số tiền nợ và tiền lãi buộc bị đơn phải thanh toán, nhưng cấp sơ thẩm lại nhận định người đại diện của nguyên đơn rút lại một phần đơn khởi kiện là chưa chính xác cần nêu ra để rút kinh nghiệm.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Người đại diện của nguyên đơn Công ty MT không rút đơn khởi kiện, người đại diện của bị đơn Công ty QQ giữ nguyên đơn kháng cáo và các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng phát biểu ý kiến: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa tiến hành xét xử vụ án đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, các đương sự chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Về quan điểm giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn Công ty QQ, chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng sửa bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Xét về thủ tục tố tụng:

[1]. Cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp “Đòi lại tài sản” và loại án dân sự là chưa chính xác. Bởi vì, nội dung tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn là phát sinh từ hoạt động kinh doanh hàng hóa liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền hàng hóa, đồng thời các đương sự đều là tổ chức có đăng ký kinh doanh, giao dịch nhằm mục đích lợi nhuận, do vậy căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự, cấp phúc thẩm xác định lại quan hệ pháp luật của vụ án là “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” và loại án là kinh doanh thương mại.

Xét nội dung kháng cáo của bị đơn Công ty QQ:

[2]. Người đại diện của Công ty MT và người đại diện của Công ty QQ đều thống nhất xác nhận việc giao dịch mua bán hàng hóa giữa các bên không có ký kết hợp đồng bằng văn bản mà chỉ thỏa thuận bằng lời nói. Trong quá trình thực hiện giao dịch, đến ngày 28/10/2019 các bên đã thống nhất lập văn bản “Tổng hợp nhập – trả hàng” giữa đơn vị trả hàng là Cty Quý Quyên và đơn vị nhận hàng là Công ty MT, nội dung văn bản thể hiện: “Tổng giá trị nhập:

2.210.902.006 đồng; tổng giá trị xuất trả: 1.496.337.503 đồng; đã chuyển khoản trả trước: 210.000.000 đồng; giá trị công nợ còn lại (chưa tính chi phí hoặc chiết khấu): 504.564.503 đồng”, cuối văn bản có chữ ký xác nhận của người đại diện theo pháp luật và đóng dấu của cả hai công ty. Đến ngày 01/11/2019, Công ty MT ban hành Thông báo số 11/2019/TBCN-ASC gửi cho Công ty QQ “V/v chiết khấu cho Công ty TNHH QQ”, Thông báo có nội dung ... “Nay, Công ty cổ phần TM TH ASC Miền Tây quyết định chiết khấu cho Công ty TNHH QQ thêm 10% trên giá vốn trên số tiền còn lại theo biên bản đối chiếu công nợ ngày 28/10/2019. Như vậy số tiền còn lại mà Công ty TNHH QQ phải thanh toán là 454.564.503 vnđ”. Cấp sơ thẩm căn cứ vào các chứng cứ nêu trên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty MT buộc Công ty QQ thanh toán số tiền nợ 454.564.503 đồng là có cơ sở và đúng quy định tại Điều 50 và Điều 55 của Luật Thương mại.

[3]. Công ty QQ kháng cáo cho rằng: Tại văn bản “Tổng hợp nhập – trả hàng” lập ngày 28/10/2019, kết quả đối chiếu nhập hàng, trả hàng và thanh toán thì Cty Quý Quyên còn nợ Công ty MT số tiền 504.564.503 đồng. Tuy nhiên, số tiền nêu trên phía Công ty MT chưa cấn trừ cho Công ty QQ các khoản tiền sau đây: Giá trị hàng tiêu hủy và hết Date là 4.301.181 đồng, giá trị hàng hết và cận Date nhờ Đại lý bán Sale 70% là 92.494.503 đồng, tiền chiết khấu cho đối tác thương mại 45% là 277.995.896 đồng, thanh toán chi phí trực tiếp cho Công ty QQ là 208.320.000 đồng. Qua xem xét các tài liệu chứng từ Công ty QQ cung cấp thì không có văn bản nào thể hiện phía Công ty MT có thỏa thuận chịu nghĩa vụ thanh toán cho Công ty QQ các khoản tiền nêu trên theo yêu cầu phản tố của Công ty QQ. Đồng thời trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện của Công ty MT cũng không thừa nhận giữa hai công ty có thỏa thuận các nội dung nêu trên. Vì Công ty QQ không có chứng cứ chứng minh cho yêu cầu phản tố của mình là có căn cứ nên cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu phản tố là phù hợp với quy định của pháp luật.

Xét nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng:

[4]. Về việc cấp sơ thẩm xác định loại án dân sự và tính án phí dân sự sơ thẩm buộc bị đơn Công ty QQ phải chịu 28.010.264 đồng là chưa đúng với quy định tại điểm c tiểu mục 1.3 mục 1 phần II của danh mục án phí ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng về nội dung này là chính xác. Tuy nhiên, tại cấp sơ thẩm xác định loại án tranh chấp dân sự là chưa đúng quy định tại khoản 1 Điều 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự, dẫn đến việc tính án phí chưa chính xác, nay cấp phúc thẩm xác định lại loại án tranh chấp kinh doanh thương mại, đồng thời phải sửa án sơ thẩm về việc tính lại án phí kinh doanh thương mại các đương sự phải chịu theo quy định tại tiểu mục 1.4 mục 1 phần II của danh mục án phí ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Đồng thời, cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm về việc nhận định nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện là chưa chính xác theo như nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng nêu ra như trên.

[5] Từ các tình tiết đã phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn Công ty QQ, chấp nhận yêu cầu kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng.

[6] Các phần khác trong quyết định của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không đặt ra xem xét.

[7] Về án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên bị đơn Công ty QQ phải chịu án phí phúc thẩm với số tiền 2.000.000 đồng (hai triệu đồng).

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 30, khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1, 2 Điều 50 và Điều 55 của Luật Thương mại;

Căn cứ khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn Công ty TNHH QQ.

Chấp nhận yêu cầu kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng theo Quyết định số 11/QĐKNPT-VKS-DS ngày 11/5/2022.

Sửa Bản án sơ thẩm 23/2022/DS-ST ngày 14 tháng 4 năm 2022, Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty Cổ phần Thương mại Tổng hợp MT đối với Công ty TNHH QQ về “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”:

Buộc Công ty TNHH QQ có nghĩa vụ thanh toán Công ty Cổ phần Thương mại Tổng hợp MT số tiền nợ 454.564.503 đồng (bốn trăm năm mươi bốn triệu, năm trăm sáu mươi bốn ngàn, năm trăm lẻ ba đồng) và tiền lãi chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán tính từ ngày 28/10/2019 đến ngày 28/02/2022 là 105.640.790 đồng (một trăm lẻ năm triệu, sáu trăm bốn mươi ngàn, bảy trăm chín mươi đồng), tổng cộng là 560.205.293 đồng (năm trăm sáu mươi triệu, hai trăm lẻ năm ngàn, hai trăm chín mươi ba đồng).

Kể từ ngày Công ty Cổ phần Thương mại Tổng hợp MT có đơn yêu cầu thi hành án thì hàng tháng Công ty TNHH QQ còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự, đối với số tiền chậm thi hành án.

2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty Cổ phần Thương mại Tổng hợp MT đối với Công ty TNHH QQ về việc buộc Công ty TNHH QQ trả tiền lãi chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán là 85.039.210 đồng (tám mươi lăm triệu, không trăm ba mươi chín ngàn, hai trăm mươi đồng).

3. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của Công ty TNHH QQ về việc buộc Công ty Cổ phần Thương mại Tổng hợp MT phải trả lại số tiền 50.798.839 đồng (năm mươi triệu, bảy trăm chín mươi tám ngàn, tám trăm ba mươi chín đồng) và tiền lãi chậm thanh toán 21.335.512 đồng (hai mươi mốt triệu, ba trăm ba mươi lăm ngàn, năm trăm mười hai đồng).

4. Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:

Công ty Cổ phần Thương mại Tổng hợp MT phải chịu án phí với số tiền 4.251.960 đồng (bốn triệu, hai trăm năm mươi mốt ngàn, chín trăm sáu mươi đồng), nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 13.756.340 đồng (mười ba triệu, bảy trăm năm mươi sáu ngàn, ba trăm bốn mươi đồng) theo biên lai thu số 0004635 ngày 23/9/2020, của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng, hoàn trả lại cho Công ty Cổ phần Thương mại Tổng hợp MT số tiền còn thừa 9.504.380 đồng (chín triệu, năm trăm lẻ bốn ngàn, ba trăm tám mươi đồng).

Công ty TNHH QQ phải chịu án phí đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận là 26.408.211 đồng và án phí đối với yêu cầu phản tố của bị đơn không được Tòa án chấp nhận là 3.606.717 đồng, tổng cộng số tiền án phí là 30.014.928 đồng (ba mươi triệu, không trăm mười bốn ngàn, chín trăm hai mươi tám đồng), nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 1.499.000 đồng (một triệu, bốn trăm chín mươi chín ngàn đồng) theo biên lai thu số 0004923 ngày 14/12/2020, của Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng, Công ty TNHH QQ có nghĩa vụ phải nộp thêm số tiền là 28.515.928 đồng (hai mươi tám triệu, năm trăm mười lăm ngàn, chín trăm hai mươi tám đồng).

5. Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Công ty TNHH QQ phải chịu số tiền 2.000.000 đồng (hai triệu đồng), nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng), theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000473 ngày 29-4-2022 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng, Công ty TNHH QQ có nghĩa vụ phải nộp thêm số tiền là 1.700.000 đồng (một triệu, bảy trăm ngàn đồng).

6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

7. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

370
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 13/2022/KDTM-PT

Số hiệu:13/2022/KDTM-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Sóc Trăng
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 08/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;