TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 06/2024/KDTM-PT NGÀY 15/05/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
Trong ngày 08 và 15 tháng 5 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại phúc thẩm thụ lý số 16/2023/TLPT-KDTM ngày 15 tháng 12 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2023/KDTM-ST ngày 25 tháng 9 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện PR, tỉnh Bình Phước bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 03/2024/QĐXXPT- KDTM ngày11 tháng 3 năm 2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Công ty TNHH thương mại dịch vụ HP.
Đại diện theo pháp luật: Ông Vũ TA, chức vụ: Giám đốc. Vắng mặt.
Địa chỉ: Số 8, đường số 6, khu dân sư C, phường 10, quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Công ty Luật TNHH bảo vệ CL – Người đại diện theo pháp luật của Công ty Ông Trần T – Giám đốc. Có mặt.
Địa chỉ: Số 234, đường TC, phường TT, quận TP, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Bùi Văn K – Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. Có mặt.
Địa chỉ: Số 234, đường TC, phường TT, quận TP, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị đơn: Công ty TNHH sản xuất thương mại xuất nhập khẩu KV. Người đại diện theo pháp luật: Ông Bùi Văn D, chức vụ: Giám đốc. Địa chỉ: Thôn 4, xã LT, huyện PR, tỉnh Bình Phước. Vắng mặt.
Ủy quyền cho ông Vũ Công Tr – SN 1997. Có mặt.
Địa chỉ: 19A/167, đường Nguyễn Thị T, phường PH, Thành phố TDM, tỉnh Bình Dương.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Nguyễn Thiện Đ – Công ty Luật TNHH một thành viên G – Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. Vắng mặt.
Địa chỉ: Số 451/1C, BĐ, phường 2, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh.
Địa chỉ cá nhân: Số 160/24/01 P, phường 12, quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Bùi Văn D, sinh năm 1971; bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1976. Vắng mặt.
Địa chỉ 1: Thôn Tân Hiệp 1, xã BN, huyện PR, tỉnh Bình Phước.
Địa chỉ 2: Khu phố 1, phường LP, thị xã PL, tỉnh Bình Phước.
* Người kháng cáo: Người đại diện theo pháp luật của bị đơn ông Bùi Văn D.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 16/11/2021 của nguyên đơn, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bên nguyên đơn trình bày:
Vào tháng 3/2020 Công ty TNHH TMDV HP (viết tắt Công ty HP) có nhu cầu đầu tư thêm vào Công ty TNHH sản xuất thương mại xuất nhập khẩu KV (viết tắt Công ty KV) để làm ăn, hai bên thỏa thuận Công ty HP góp số vốn 51% tương đương với số tiền 25.500.000.000đ, Công ty KV góp 49%, sau đó Công ty KV thay đổi giấy phép đăng ký doanh và ông D là người đại diện theo pháp luật nhưng trên thực tế Công ty HP chưa thực hiện việc góp vốn vào Công ty KV vì Công ty HP thấy việc góp vốn không hiệu quả, không hợp tác được với Công ty KV nên thống nhất dừng lại việc hợp tác và bên ông D đi thay đổi lại giấy phép đăng ký kinh doanh để bỏ Công ty HP với tư cách góp vốn ra khỏi Công ty. Thời gian Công ty HP đứng trong giấy phép đăng ký kinh doanh với tư cách thành viên góp vốn của Công ty KV thì Công ty vẫn chưa có hoạt động nào về sản xuất kinh doanh, việc góp vốn bên Công ty KV chưa hoàn thành và hợp tác chỉ dừng lại tại giai đoạn cấp giấy phép đăng ký kinh doanh nên chưa có hoạt động kinh doanh nào.
Đối với việc mua bán điều: Ngày 11/5/2020 giữa Công ty HP và Công ty TNHH O có ký với nhau 02 hợp đồng mua bán điều, theo đó Công ty HP sẽ bán cho O 06 công điều trong đó 03 công điều chất lượng Lp và 03 công điều chất lượng Ws. Sau khi ký hợp đồng với O thì bên Công ty HP có điện lên cho Công ty KV thỏa thuận mua trước 02 công điều để xuất cho O, việc mua bán điều với Công ty KV thông qua điện thoại chứ chưa đến giai đoạn hai bên lập hợp đồng mua bán, vì Công ty KV trước đây có xuất điều cho O nên khi bên Công ty HP điện lên cho Công ty KV để mua trước 02 công điều thì Công ty KV biết quy cách, chất lượng điều, theo đó Công ty KV có trách nhiệm thu mua điều và sản xuất tại xưởng của mình, sau khi sản xuất xong thì kiểm định chất lượng của O sẽ lên kiểm định số lượng, chất lượng lúc đó O sẽ nhận hàng tại xưởng của Công ty KV. Sau khi các bên thống nhất thỏa thuận mua bán như vậy thì đến ngày 13/5/2020 Công ty HP tiến hành chuyển số tiền 1.000.000.000đ qua số tài khoản của Công ty KV (31010002213982), tiếp đó ngày 15/5/2020 thì Công ty HP tiếp tục chuyển khoản 1.000.000.000đ cho Công ty KV. Sau ngày 15/5 thì Công ty HP và Công ty KV không đạt được sự thỏa thuận góp vốn chung để đầu tư góp vốn vào Công ty KV, sau đó hai bên thống nhất ngưng toàn bộ việc đầu tư góp vốn có liên quan đến nhau, theo đó bên Công ty HP phải có trách nhiệm ký chuyển nhượng lại phần vốn góp 51% (Ký chuyển nhượng vốn về mặt thủ tục giấy tờ chứ không phải chuyển vốn góp thật vì lúc đó Công ty HP chưa góp vốn) cho người đại diện bên Công ty KV để Công ty KV cấp đổi lại giấy phép đăng ký kinh doanh để ổn định hoạt động kinh doanh như trước đây, đồng thời phía Công ty KV có trách nhiệm hoàn trả lại cho Công ty HP 02 tỷ tiền mua thua điều đã chuyển trước đây, theo đó đến ngày 25/5/2020 ông Bùi Văn D giám đốc Công ty KV chuyển trả 1 tỷ đồng cho Công ty HP thông qua tài khoản cá nhân của ông N. Còn lại 1 tỷ đồng thì Công ty KV xin khất lại chuyển trả sau nhưng sau đó Công ty KV có nói đã mua hàng rồi thì bên Công ty HP cũng đồng ý nhận bằng hàng phần còn lại tiền mua hàng còn bao nhiêu thì nhận lại bằng tiền, sau đó Công ty HP điện thoại nhiều lần yêu cầu Công ty KV cho lịch giao hàng nhưng Công ty KV không giao và bất hợp tác, không liên lạc được và cho đến khi hết thời điểm bên Công ty HP phải giao hàng cho O thì bên Công ty HP chuyển sang đòi lại tiền của Công ty KV nhưng Công ty KV không hợp tác và cũng không trả lại tiền.
Nay Công ty HP khởi kiện yêu cầu Công ty KV phải có nghĩa vụ trả lại số tiền mua bán 1.000.000.000đ và đồng thời yêu cầu Công ty KV phải bồi thường thiệt hại về tài chính vì số tiền này Công ty HP phải vay của Công ty tài chính, phải chịu tiền lãi và phí giải ngân, cụ thể tiền lãi tạm tính tới ngày nộp đơn khởi kiện là 224.000.000đ và phí giải ngân 100.000.000đ. Tổng cộng số tiền Công ty HP yêu cầu tạm tính là 1.324.000.000đ.
Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn thì Công ty HP không đồng ý. Ngoài ra không có yêu cầu nào khác.
Bị đơn Công ty TNHH sản xuất thương mại xuất nhập khẩu KV trình bày:
Vào tháng 3/2020 Công ty HP và Công ty KV có thỏa thuận hợp tác thay đổi lại giấy phép đăng ký kinh doanh cũ của Công ty KV thành Công ty mới, theo đó Công ty HP góp số vốn 51% tương đương với số tiền 25.500.000.000đ. Sau khi được giấy phép Công ty TNHH sản xuất thương mại xuất nhập khẩu KV thì bên Công ty HP chưa thực hiện việc góp vốn vào Công ty nên gây lên khó khăn hoạt động Công ty và bên Công ty KV đã yêu cầu đổi lại giấy phép đăng ký kinh doanh theo đó vào ngày 03/6/2020 được cấp đổi lại thành Công ty TNHH sản xuất thương mại xuất nhập khẩu KV, chủ sở hữu mới là Bùi Văn Tuấn và Bùi Văn D. Thiệt hại mà Công ty HP gây lên cho Công ty KV là không góp vốn vào Công ty điều đó dẫn đến giấy phép đăng ký kinh doanh thay đổi làm gián đoạn hoạt động bình thường của Công ty KV. Mặt khác, việc thay đổi đi, thay đổi lại giấy phép đăng ký kinh doanh dẫn đến việc cập nhật giấy tờ cho Hải Quan bị chậm trễ nên vào ngày 30/3/2021 Công ty KV có mua điều của O do không cập nhật được tên Công ty mới nên Hải Quan không cho nhận hàng. Do đó, số hàng điều phải lưu lại kho bên Công ty KV phải thuê Công ty TNHH cung ứng toàn cầu PNP đứng ra thanh toán dùm Công ty KV số tiền 905.223.103đ, số tiền này là tiền phạt lưu kho, lưu bãi của Hãng tàu Maersk phạt Công ty KV. Sau đó Công ty KV phải trả số tiền này cho PNP để lấy hàng cộng với tiền thuê kho nữa là tổng số tiền là 1.263.000.000đ.
Đối với việc mua bán hạt điều: Công ty HP gửi tiền cho Công ty KV là gửi lên mua dùm điều chứ không phải là mua điều của Công ty KV. Công ty KV chỉ mua dùm đóng công dùm cho Công ty HP xuất để lấy tiền USD chứ Công ty KV không phải là người bán điều cho Công ty HP, vì lúc này Công ty HP vẫn đứng tên trong Công ty TNHH sản xuất thương mại xuất nhập khẩu KV nên không có việc mua bán ở đây, việc mua điều là trong tháng 5/2020 đến ngày 03/6/2020 thì lúc này công TNHH sản xuất thương mại xuất nhập khẩu KV thay đổi lại chủ sở hữu và Công ty HP không còn là chủ sở hữu trong Công ty KV nữa, sau đó Công ty HP cụ thể chỗ ông N có yêu cầu trả điều cho ông N nhưng bên Công ty KV yêu cầu Công ty HP lên thanh toán số tiền chi phí thay đổi lại giấy phép đăng ký kinh doanh, tiền ngân Hng khi tất toán Công ty cũ, những số tiền này Công ty KV phải mượn nóng để làm nhưng phía ông N không lên mà toàn cho nhân viên liên hệ với bên ông D, bà H để đòi điều. Do đó, hai bên cứ nhùng nhằng chưa giải quyết được thì ông N khởi kiện Công ty KV ra Tòa, sự thực Công ty KV chỉ mua dùm điều và yêu cầu ông N phải lên thanh toán và giải quyết các vấn đề hợp tác nhưng ông N không lên dẫn đến Công ty KV phải lưu kho điều và hàng tháng phải đánh thuốc bảo quản số điều đã mua cho bên ông N hiện số điều vẫn còn trong kho và Tòa án đã đến xem xét trực tiếp nay bên ông N muốn nhận lại điều thì phải bồi thường các số tiền thiệt hại và chi phí lưu kho như trong đơn phản tố đã đề cập cụ thể số tiền tạm tính 498.626.000đ.
Công ty KV yêu cầu phản tố, yêu cầu Công ty HP phải bồi thường lại số tiền thiệt hại do HP không thực hiện việc góp vốn số tiền là 1.263.000.000đ. Số tiền thiệt hại do chi phí bảo quản lưu kho 6.900kg điều với số tiền tạm tính đến ngày nộp đơn phản tố 498.626.000đ.
Tổng cộng hai khoản tiền là 1.761.626.000đ.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Bùi Văn D và bà Nguyễn Thị H đồng thời là chủ sở hữu Công ty KV nên không có lời khai khác.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2023/KDTM-ST ngày 25 tháng 9 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện PR, tỉnh Bình Phước quyết định:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 147, 157, 158, 165; các Điều 201, 217, 227, 235, 266 và Điều 271 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Các Điều 24; 34; 37; 292; 302 của Luật Thương mại 2005;
- Các Điều 46; 47 Luật Doanh nghiệp năm 2020;
- Các Điều 26, 27 của Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
[1]. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TNHH thương mại dịch vụ HP.
Buộc bị đơn Công ty TNHH sản xuất thương mại xuất nhập khẩu KV phải có nghĩa vụ trả lại số tiền mua bán hạt điều 1.000.000.000đ cho nguyên đơn Công ty TNHH thương mại dịch vụ HP.
Bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu Công ty TNHH sản xuất thương mại xuất nhập khẩu KV phải có nghĩa vụ bồi thường cho nguyên đơn số tiền 660.000.000đ.
Bác toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn Công ty TNHH sản xuất thương mại xuất nhập khẩu KV về việc yêu cầu Công ty TNHH thương mại dịch vụ HP phải bồi thường số tiền 2.019.580.000đ cho bị đơn.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về phần án phí, chi phí tố tụng và nghĩa vụ thi hành án, quyền kháng cáo của các đương sự theo luật định.
Sau khi xét xử sơ thẩm ngày 09/10/2023, đại diện theo pháp luật của bị đơn ông Bùi Văn D có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa nội dung bản án sơ thẩm bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.
Ngày 09/10/ 2023, ông Vũ TA là người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn có đơn kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền lãi và phí giải ngân 660.000.000 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn thay đổi một phần yêu cầu kháng cáo. Đề nghị cấp phúc thẩm buộc bị đơn phải trả lại số tiền 01 tỷ đồng mua hạt điều và 280.000.000đ tiền lãi (tương ứng mức lãi suất 7%/năm) Bị đơn cho rằng số tiền 2 tỷ đồng là Công ty HP góp vốn vào Công ty KV. Công ty KV dùng tiền này thu mua hạt điều xuất bán cho Công ty O. Về quy cách, chất lượng sản phẩm, thời hạn, giá cả…. theo quy định chung của O đưa ra. Đây không phải tiền Công ty KV mua hộ hạt điều cho bên Công ty HP như trước đây đã trình bày, đề nghị cấp phúc thẩm bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận một phần yêu cầu phản tố, buộc nguyên đơn phải bồi thường thiệt hại do chi phí bảo quản lưu kho 6.900kg điều với số tiền tạm tính đến ngày nộp đơn phản tố 498.626.000đ. Bị đơn rút phần yêu cầu phản tố buộc nguyên đơn bồi thường thiệt hại do không thực hiện việc góp vốn là 1.263.000.000đ, đề nghị cấp phúc thẩm đình chỉ xét xử phần này.
Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước:
- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử: Kể từ ngày thụ lý vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung giải quyết vụ án:
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự tuyên chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn, hủy Bản án sơ thẩm số 04/2023/KDTM-ST ngày 25 tháng 9 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện PR để thụ lý, xét xử lại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy rằng:
* Về tố tụng:
[1] Đơn kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn làm trong thời hạn luật định, hình thức và nội dung phù hợp các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn được triệu tập lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của bị đơn đề nghị HĐXX vẫn tiến hành xét xử vụ án. Căn cứ Điều 299 BLTTDS năm 2015, HĐXX vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định chung.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn rút phần yêu cầu phản tố đề nghị buộc nguyên đơn phải bồi thường thiệt hại do không thực hiện việc góp vốn vào Công ty KV với số tiền là 1.263.000.000đ, đề nghị cấp phúc thẩm đình chỉ xét xử phần này. Phía nguyên đơn đồng ý việc rút yêu cầu cầu này của bị đơn. Xét thấy phần tranh chấp này giữa các bên là tranh chấp giữa Công ty với thành viên của Công ty theo quy định tại khoản 4 Điều 30 và Điều 37 BLTTDS. Tuy nhiên, xét việc rút yêu cầu của phản tố của bị đơn là tự nguyện, được nguyên đơn chấp nhận. HĐXX căn cứ quy định tại Điều 299 BLTTDS hủy 1 phần bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu này của bị đơn.
[2] Xét nội dung kháng cáo còn lại của các bên đương sự nhận thấy:
Trong các ngày 13/5/2020 và ngày 15/5/2020, Công ty HP chuyển số tiền 2.000.000.000đ qua số tài khoản của Công ty KV (Stk 31010002213982), lý do chuyển tiền là “ Thu mua điều”. Sau đó, ông D là người đại diện theo pháp luật của bị đơn Công ty KV đã chuyển trả cho Công ty HP số tiền 01 tỷ đồng, còn lại 01 tỷ đồng, nội dung này được các bên thừa nhận.
Quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, bị đơn Công ty KV cho rằng số tiền Công ty HP chuyển cho Công ty KV là nhờ Công ty KV mua hộ hạt điều, lời trình bày của đại diện Công ty KV đều có cam đoan là đúng sự thật, nhưng tại phiên tòa phúc thẩm đại diện theo ủy quyền của Công ty KV lại khẳng định, số tiền này không phải Công ty HP nhờ Công ty KV mua hộ hạt điều mà là số tiền Công ty HP góp vốn. Xét lời trình bày của Đại diện bị đơn tại phiên tòa phúc thẩm là mâu thuẫn với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án như: lý do Công ty HP chuyển khoản số tiền trên ghi rõ là “ thu mua điều”, nếu là tiền góp vốn thì Công ty KV phải có giấy chứng nhận việc góp vốn cho Công ty HP là thành viên góp vốn và ông D không thể tự ý chuyển trả lại 01 tỷ đồng cho Công ty HP, hơn nữa số hạt điều 6.900kg Công ty KV mua được hiện còn trong kho của Công ty KV và Công ty KV có yêu cầu Công ty HP phải nhận số hạt điều này, bên cạnh đó Công ty KV còn có yêu cầu phản tố đòi Công ty HP phải bồi thường chi phí bảo quản số hạt điều này, nếu là hạt điều của Công ty KV mua từ tiền góp vốn thì đây là tài sản của Công ty, chi phí bảo quản là do Công ty KV chịu trách nhiệm… Như vậy, xét lời trình bày của phía bị đơn tại phiên tòa phúc thẩm có nhiều mâu thuẫn, trái ngược với nhau, nên không có căn cứ để chấp nhận. Có cơ sở khẳng định Công ty HP chuyển khoản số tiền Công ty KV không phải là tiền góp vốn mà là tiền mua hạt điều để Công ty HP xuất bán cho Công ty O.
Nay các bên có tranh chấp nhau về việc giao nhận số điều thu mua được và yêu cầu bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng. Tòa cấp sơ thẩm tuyên chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty HP buộc bị đơn Công ty KV phải có nghĩa vụ trả lại số tiền mua bán hạt điều 1.000.000.000đ, bác các yêu cầu của các bên đương sự về bồi thường thiệt hại.
Xét thấy, trong quá trình giải quyết vụ án phía Công ty HP cho rằng Công ty KV không giao hạt điều đã gây thiệt hại cho nguyên đơn, còn phía bị đơn cho rằng nguyên đơn không nhận hạt điều do giá cả trên thị trường xuống thấp và yêu cầu nguyên đơn phải lên giải quyết những vấn đề liên quan đến việc góp vốn mới đồng ý giao số hạt điều trên. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm chưa thu thập đầy đủ các tài liệu, chứng cứ để chứng minh được các vấn đề cần thiết như: Sau khi nhận tiền, Công ty KV đã mua được số hạt điều cho Công ty HP hay không (số hạt điều có trong kho tại thời điểm xem xét chưa thể khẳng định mua từ tháng 5/2020), nếu Công ty KV thu mua được số hạt điều này thì có việc thông báo cho bên Công ty HP nhận hàng không; căn cứ chứng minh bên Công ty HP được thông báo mà không nhận số hạt điều này là do giá cả thị trường xuống thấp như lời trình bày của phía bị đơn. Các căn cứ chứng minh thiệt hại do Công ty KV phải bỏ ra 498.626.000đ để bảo quản số hạt điều như bị đơn yêu cầu cũng chưa được làm rõ. Sau khi làm rõ các nội dung trên, trường hợp các bên đều có lỗi thì cần thiết phải tiến hành xác định giá trị còn lại của số hạt điều trên làm cơ sở giải quyết bồi thường thiệt. Những vấn đề trên, chưa được cấp sơ thẩm làm rõ, cấp phúc thẩm không thể khắc phục, bổ sung được. Cần chấp nhận một phần kháng cáo của các bên đương sự và đề nghị của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước, hủy 01 phần bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án về cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục chung
[4] Án phí kinh doanh thương mại:
Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: bị đơn phải chịu đối với phần rút yêu cầu phản tố tại cấp phúc thẩm.
Án phí sơ thẩm đối với các yêu cầu khác của các bên đương sự được xem xét quyết định khi Tòa cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Do kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn được chấp nhận nên các bên không phải chịu theo quy định của pháp luật.
[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 299; khoản 4 Điều 308, Điều 311 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[1]. Chấp nhận việc rút một phần yêu cầu phản tố của bị đơn Công ty TNHH sản xuất thương mại xuất nhập khẩu KV đối với Công ty TNHH thương mại dịch vụ HP.
Hủy một phần Bản án sơ thẩm số 04/2023/KDTM-ST ngày 25 tháng 9 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện PR, tỉnh Bình Phước và đình chỉ xét xử phúc thẩm về phần giải quyết bồi thường thiệt hại số tiền là 1.263.000.000đ.
[2]. Căn cứ vào khoản 3 Điều 308, Điều 310 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn.
Hủy một phần Bản án sơ thẩm số 04/2023/KDTM-ST ngày 25 tháng 9 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện PR về “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa và bồi thường thiệt hại”, giao hồ sơ về Tòa án nhân dân huyện PR để thụ lý, giải quyết lại theo thủ tục chung.
[3].Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
Công ty TNHH sản xuất thương mại xuất nhập khẩu KV phải chịu 49.890.000đ, đối với việc rút yêu bồi thường thiệt hại số tiền là 1.263.000.000đ, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 33.000.000đ theo biên lại thu tiền số 0015919 ngày 10/11/2022 tại Chi cục Thi Hnh án dân sự huyện PR. Công ty TNHH sản xuất thương mại xuất nhập khẩu KV còn phải nộp 11.019.580đ.
- Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm đối với các yêu cầu còn lại của các đương sự sẽ được xem xét, giải quyết khi Tòa án sơ thẩm thụ lý giải quyết vụ án lại.
[4]. Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm:
Các đương sự không phải chịu. Công ty TNHH sản xuất thương mại xuất nhập khẩu KV được hoàn trả số tiền 2.000.000đ đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0016376 ngày 16/10/20223 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện PR, tỉnh Bình Phước. Công ty TNHH thương mại dịch vụ HP được hoàn trả số tiền 2.000.000đ đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0016422 ngày 25/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện PR, tỉnh Bình Phước Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 06/2024/KDTM-PT
Số hiệu: | 06/2024/KDTM-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Phước |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 15/05/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về