TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 05/2022/KDTM-ST NGÀY 30/03/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN ĐIỆN
Ngày 30 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hóa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Kinh doanh thương mại thụ lý số: 15/2021/TLST- KDTM ngày 24 tháng 11 năm 2021 về việc: “ Tranh chấp hợp đồng mua bán điện”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 64/2022/QĐXXST- KDTM ngày 21 tháng 02 năm 2022 giữa:
Nguyên đơn: Tổng công ty Điện lực MB Địa chỉ: Phường L, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
- Người đại diện theo pháp luật: Bà Đỗ Nguyệt A – Tổng giám đốc - Người đại diện theo ủy quyền: Ông Bùi Đức Th - Giám đốc Điện lực thành phố.
Địa chỉ: Phường An Hưng, thành phố Thanh Hóa.
Bị Đơn: Công ty cổ phần khách sạn L Địa chỉ: Khu đô thị mới Đông Hương (Khu đô thị Bình Minh), phường Đông Hương, TP. Thanh Hóa;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trương Đức H – Giám đốc Tại phiên tòa có mặt Nguyên đơn và vắng mặt bị đơn các đương sự .
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện cùng bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án đại diện phía nguyên đơn trình bày:
Ngày 01/12/2016 Công ty Điện lực Th đã ký hợp đồng mua bán điện số 16000116 và 1600115 với mã khách hành là PA 07TP0013546 và PA 07TP0013547 cho Công ty cổ phần khách sạn L, mục đích để kinh doanh dịch vụ khách sạn.
Trong quá trình cung cấp dịch vụ và sử dụng điện hai bên luôn tuân thủ các quy định của pháp luật cũng như thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo hợp đồng đã ký kết.
Tuy nhiên đến tháng 8, 9, 10 năm 2020 Công ty cổ phần khách sạn L đã không thực hiện thanh toán tiền điện cho Tổng Công ty Điện Lực MB, nên đã vi phạm các điều khoản trong hợp đồng đã ký kết. Do đó Điện Lực thành phố Thanh Hóa đã thực hiện việc ngừng cấp điện đối với Công ty cổ phần khách sạn L.
Ngày 04/ 01/ 2021 Điện Lực thành phố Th đã lập biên bản xác nhận công nợ với Công ty cổ phần Khách sạn L và đã nhiều lần yêu cầu Công ty cổ phần Khách sạn L thanh toán khoản nợ tiền điện, nhưng không có kết quả.
Nay Tổng công ty điện lực MB khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty cổ phần khác sạn L thanh toán cho Tổng công ty điện lực MB số tiền điện nợ của tháng 8, 9, 10 năm 2020 là 196.099.625đ và do tình hình đại dịch CoV diễn biến phức tạp dẫn đến việc kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và Công ty cổ phần khác sạn L nói riêng gặp rất nhiều khó khăn. Để chia sẻ khó khăn với Công ty cổ phần khách sạn L trong tình hình hiện nay, Tổng công ty điện lực MB không yêu cầu Công ty cổ phần khác sạn L phải thanh toán khoản tiền lãi từ tháng 8 năm 2020 đến ngày Tòa án xét xử vụ án. Đề nghị Tòa án tuyên buộc Công ty cổ phần khác sạn L phải có trách nhiệm trả tiền lãi theo mức lãi suất các bên thỏa thuận trong hợp đống mua bán điện kể từ sau ngày Tòa án xét xử vụ án đến khi Công ty cổ phần khác sạn L thanh toán xong khoản tiền nợ theo quy định của pháp luật.
Tại các bản khai và hòa giải đại diện phía bị đơn trình bày:
Ngày 12/11/2020 HĐQT Khách sạn L ban hành Quyết định số 01/QĐ-KSLK- HĐQT về việc bổ nhiệm giám đốc công ty đối với ông Trương Đức H là người đại diện theo pháp luật của Công ty cổ phần khác sạn L. Khi ông H nhận bàn giao thì tình trạng khách sạn bị tê liệt, không có điện và xuống cấp trầm trọng. Do đó Công ty cổ phần khách sạn L đã làm văn bản gửi tới các cơ quan chức năng về việc tạm đóng cửa để sữa chữa và tái hoạt động trở lại khi đảm bảo chất lượng dịch vụ trong thời gian sớm nhất, đồng thời tổ chức hội nghị người lao động và chủ động chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động, chỉ giữ lại bảo vệ vòng ngoài để đảm bảo tài sản của công ty. Chính vì việc đóng cửa khách sạn và khách sạn chưa hoạt động trở lại, nên không có doanh thu từ tháng 11 năm 2020 đến nay. Do đó Công ty cổ phần khách sạn L đã làm việc với Điện lực thành phố Th về công nợ trước, đồng thời Công ty đưa ra phương án khi nào khách sạn L khởi động mở cửa hoạt động trở lại sẽ thanh toán 100% số tiền nợ cho Tổng Công ty Điện lực MB.
Nay Tổng Công ty Điện lực MB khởi kiện yêu cầu Công ty cổ phần khách sạn L phải thanh toán khoản tiền điện nợ của công ty tháng 8,9,10 năm 2020 là 196.099.625đ thì phía Công ty cổ phần khách sạn L thông nhất với khoản tiền nợ mà Tổng Công ty Điện lực MB yêu cầu. Nhưng do tình hình hiện nay Công ty cổ phần khách sạn L đang tạm dừng hoạt động, nên chưa có khoản thu để trả khoản nợ tiền điện. Khi nào Khách sạn hoạt động trở lại thì công ty cổ phần khách sạn L sẽ thanh toán toàn bộ khoản tiền điện còn nợ cho Tổng Công ty Điện lực MB.
Quá trình giải quyết vụ án: Các bên không có tranh chấp về nội dung của hợp đồng mua bán điện đã ký kết. Phía nguyên đơn chỉ yêu cầu phía bị đơn thanh toán khoản tiền điện còn nợ và không đồng ý với ý kiến của bị đơn về việc chờ khi nào hoạt động trở lại mới thanh toán mà yêu cầu bị đơn phải có trách nhiệm thanh toán khoản nợ tiền điện của tháng 8,9,10 năm 2020 theo quy định.
Tại phiên tòa Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện,
Ý kiến của đại diện VKS:
- Về việc chấp hành pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án: Từ khi thụ lý đến quá trình xét xử vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và Nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Riêng phía bị đơn đã được triệu tập đến phiên tòa lần 2, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, là không chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật.
- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đại diện VKS đề nghị HĐXX:
Áp dụng: Điều 50; 306; 319 Luật Thương Mại. Điều 30; 35; 39; 147 của Bộ luật tố tụng dân sự. Khoản 2 Điều 26 Nghị Quyết 326/2016/ UBTVQH 14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ngày 30/12/2016.
Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn.
Buộc Công ty cổ phần khách sạn L phải trả cho Tổng Công ty Điện lực MB số tiền điện còn nợ lại của tháng 8, 9, 10 năm 2020 là 196.099.625đ và kể từ sau ngày Tòa án xét xử Công ty cổ phần khách sạn L phải trả khoản tiền lãi chậm trả cho đến khi thanh toán xong khoản nợ của Tổng Công ty Điện lực MB theo quy định.
Về án phí: Công ty cổ phần khách sạn L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả xét hỏi tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về Tố tụng:
Đây là tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa các tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận; Bị đơn có trụ sở trên địa bàn thành phố Thanh Hóa. Do đó đây là tranh chấp về kinh doanh thương mại và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa và trong thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 30; Điểm b Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 319 Luật Thương mại. Bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ lần thứ 2, nhưng người đại diện cho bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó căn cứ Điểm b Khoản 2 Điều 227; Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt phía bị đơn.
[2] Xét yêu cầu của nguyên đơn:
- Đối với yêu cầu trả khoản tiền nợ mua điện:
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án, lời khai của các bên trong quá trình giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định hiện nay Công ty cổ phần khách sạn L còn nợ Tổng Công ty Điện lực MB tiền điện của tháng 8, 9,10 năm 2020 là 196.099.625đ, theo hợp đồng mua bán điện số 16000116 và 1600115 với mã khách hành là PA 07TP0013546 và PA 07TP0013547 ngày 01/12/2016.
Vì vậy cần buộc Công ty cổ phần khách sạn L phải có trách nhiệm trả số tiền điện còn nợ cho Tổng Công ty Điện lực MB là phù hợp với quy định tại Khoản 1,2 Điều 50 Luật thương mại.
- Đối với yêu cầu khoản tiền lãi: Tuy trong Hợp đồng mua bán mua bán điện số 16000116 và 1600115 với mã khách hành là PA 07TP0013546 và PA 07TP0013547 ngày 01/12/2016 các bên thỏa thuận thời hạn thanh toán là 07 ngày kể từ ngày Công ty cổ phần khách sạn L nhận được thông báo thanh toán lần đầu và nếu quá thời hạn thanh toán theo thỏa thuận mà chưa thanh toán thì Công ty cổ phần khách sạn L phải trả lãi của khoản tiền chậm trả theo mức lãi suất cho vay cao nhất của ngân hàng mà Tổng Công ty Điện lực MB có tài khoản ghi trong hợp đồng. Nhưng để chia sẽ khó khăn cùng Công ty cổ phần khách sạn L trong tình hình hiện nay,Tổng Công ty Điện lực MB chỉ yêu cầu Công ty cổ phần khách sạn L phải trả khoản tiền nợ gốc và không yêu cầu tính lãi đến ngày Tòa án xét xử.
Kể từ sau ngày Tòa án xét xử vụ án, Tổng Công ty Điện lực MB yêu cầu Công ty cổ phần khách sạn L phải trả khoản tiền lãi đến khi thanh toán xong khoản nợ, theo mức lãi suất các bên thỏa thuận trong hợp đồng mua bán điện.
Xét về việc không yêu cầu khoản tiền lãi cho đến ngày Tòa án xét xử và yêu cầu khoản tiền lãi chậm trả kể từ sau ngày Tòa án xét xử cho đến khi thanh toán xong khoản nợ của Tổng Công ty Điện lực MB là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với quy định tại Điều 306 Luật Thương mại, nên chấp nhận.
[ 3]Về án phí :
Công ty cổ phần khách sạn L phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm đối với yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận theo quy định tại Khoản 2 Điều 26 NQ 326/2016/ UBTVQH 14 là 196.099.625đ x 5% = 9.804.981 đ Vì các lẽ trên;
Áp dụng:
QUYẾT ĐỊNH
Khoản 1 Điều 30; Điểm b Khoản 1 Điều 35 và Điểm a Khoản 1 Điều 39; Điểm b Khoản 2 Điều 227 và Khoản 3 Điều 228; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Điều 50; Điều 306, Điều 319 Luật Thương mại; Khoản 2 Điều 26 NQ 326/2016/ UBTVQH 14.
Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn;
Buộc Công ty cổ phần khách sạn L phải trả cho Tổng Công ty Điện lực MB số tiền điện còn nợ của tháng 8, 9, 10 năm 2020 tại các hợp đồng mua bán điện số 16000116 và 1600115 với mã khách hành là PA 07TP0013546 và PA 07TP0013547 ngày 01/12/2016 là 196.099.625đ .
Kể từ sau ngày tuyên bản án sơ thẩm, Công ty cổ phần khách sạn L phải chịu khoản tiền lãi chậm trả trên khoản tiền nợ gốc cho đến khi thanh toán xong khoản tiền nợ gốc, theo mức lãi suất các bên thỏa thuận trong hợp đồng mua bán điện số 16000116 và 1600115 với mã khách hành là PA 07TP0013546 và PA 07TP0013547 được ký kết giữa Tổng Công ty Điện lực MB với Công ty cổ phần khách sạn L ngày 01/12/2016.
4. Về án phí: Công ty cổ phần khách sạn L phải chịu 9.804.981 đ tiền án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
Trả lại cho Tổng Công ty Điện lực MB toàn bộ số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm là 4.902.000đ theo biên lai thu số AA/2021/0001412 ngày 19/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án
Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán điện số 05/2022/KDTM-ST
Số hiệu: | 05/2022/KDTM-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 30/03/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về