Bản án về tranh chấp hợp đồng lao động tiền lương, bảo hiểm xã hội số 05/2024/LĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SA ĐÉC, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 05/2024/LĐ-ST NGÀY 31/07/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG TIỀN LƯƠNG, BẢO HIỂM XÃ HỘI

Trong ngày 31 tháng 7 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sa Đéc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 08/2024/TLST-LĐ ngày 27 tháng 3 năm 2024 về “Tranh chấp hợp đồng lao động về tiền lương, bảo hiểm xã hội”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2024/QĐXXST-LĐ ngày 24 tháng 6 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2024/QĐST-LĐ ngày 15 tháng 7 năm 2024, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Lê Văn T, sinh năm: 1998. Địa chỉ: Số E, ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Đ.

2. Bị đơn: Công ty Cổ phần T1 (viết tắt là Công ty T1). Địa chỉ: Tầng T, Cao ốc H, số C H, Phường D, quận T, TP ... Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Anh N, chức vụ: Giám đốc. Địa chỉ: A B, Phường B, quận T, TP ...

Địa chỉ chi nhánh: Lô I, I, một phần Lô I, Khu A - Khu Công nghiệp S, phường A, thành phố S, tỉnh Đ.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bảo hiểm xã hội thành phố S. Người đại diện theo pháp luật: Ông Mai Trường G, chức vụ: Giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Võ Sĩ N1, chức vụ: Phó Giám đốc. Địa chỉ: Số H Hồ T, khóm T, phường A, thành phố S, Đ (Văn bản ủy quyền ngày 15/4/2024).

Anh T có mặt tại phiên tòa; ông N1 vắng mặt, nhưng có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt; Công ty Cổ phần T1 (ông N) vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn anh Lê Văn T trình bày:

Trước đây, anh T có ký hợp đồng lao động và làm việc tại Công ty T1 từ tháng 4/2021 với vị trí là công nhân sản xuất, sau đó là tài xế xe nâng. Anh T làm việc tại Công ty T1 từ tháng 4/2021, đến ngày 14/11/2023 Công ty T1 ra quyết định cho anh T nghỉ việc từ ngày 15/11/2023. Trong quá trình làm việc thì Công ty T1 có trả lương cho anh T đầy đủ đến hết tháng 9/2023, còn nợ lại lương của tháng 10/2023 là 6.931.525 đồng và nợ lương tháng 11/2023 là 3.281.150 đồng, tổng cộng là 10.212.675 đồng.

Theo hợp đồng lao động với Công ty T1 thì anh T tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp từ tháng 4/2021 và Công ty T1 hàng tháng có trích lại tiền lương của anh T để đóng cho anh T từ tháng 4/2021 đến hết tháng 10/2023. Nhưng sau đó cơ quan Bảo hiểm xã hội thành phố S nơi anh T tham gia cho biết từ tháng 11/2022 đến hết tháng 10/2023 Công ty T1 không đóng tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp cho anh T số tiền nợ và tiền lãi do chậm đóng là 13.053.588 đồng.

Nay anh T yêu cầu Công ty T1 trả cho anh T tiền lương từ ngày 01/10/2023 đến ngày 15/11/2023 số tiền là 10.212.675 đồng và đóng đủ tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp và tiền lãi do chậm đóng vào Bảo hiểm xã hội thành phố S cho anh T đến hết tháng 10/2023 số tiền là 13.053.588 đồng, tiếp tục đóng lãi cho đến khi đóng đầy đủ theo quy định của B.

Ngoài ra, anh T không có yêu cầu gì khác.

Bị đơn Công ty Cổ phần T1 (ông Nguyễn Anh N) dù đã được tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ, nhưng không có văn bản nêu ý kiến, không đến Tòa án để làm việc và không xuất trình bất cứ tài liệu chứng cứ gì để bảo vệ quyền lợi cho mình.

Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bảo hiểm xã hội thành phố S là ông Võ Sĩ N1 có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, có lời khai trong quá trình giải quyết vụ án trình bày:

Anh Lê Văn T có tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp tại Bảo hiểm xã hội thành phố S do Công ty F lập danh sách và báo tăng lao động gửi về Bảo hiểm xã hội thành phố S để tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp cho anh T với thời gian tham gia từ tháng 4/2021 đến hết tháng 10/2023. Tính đến hết tháng 10/2023 Công ty F chậm đóng vào Bảo hiểm xã hội thành phố Sa Đéc cho anh T tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp và tiền lãi do chậm đóng là 13.053.588 đồng; Theo quy định thì Công ty F phải tiếp tục đóng lãi cho đến khi đóng đầy đủ theo quy định của B.

Nay Bảo hiểm xã hội thành phố Sa Đéc thống nhất với yêu cầu khởi kiện của anh T là yêu cầu Công ty T1 đóng đủ tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp và tiền lãi do chậm đóng vào Bảo hiểm xã hội thành phố S cho anh T đến hết tháng 10/2023 số tiền là 13.053.588 đồng, tiếp tục đóng lãi cho đến khi đóng đầy đủ theo quy định của B.

Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát:

Về tố tụng: Thống nhất về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án, đều đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Riêng bị đơn Công ty T1 (ông Nguyễn Anh N) không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án.

Về nội dung vụ án, quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn anh Lê Văn T, buộc Công ty T1 phải trả cho anh T tiền lương từ ngày 01/10/2023 đến ngày 15/11/2023 số tiền là 10.212.675 đồng và đóng đủ tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp và tiền lãi do chậm đóng vào Bảo hiểm xã hội thành phố S cho anh T đến hết tháng 10/2023 số tiền là 13.053.588 đồng, tiếp tục đóng lãi cho đến khi đóng đầy đủ theo quy định của B.

Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

Trước khi khởi kiện ở Tòa án, vụ việc đã được Phòng Lao động Thương binh và Xã hội thành phố Sa Đéc hòa giải nhưng không thành. Do đó, nguyên đơn khởi kiện đến Tòa án là phù hợp quy định tại Điều 32 Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 1 Điều 188 Bộ luật lao động năm 2019.

Nguyên đơn tranh chấp với bị đơn hợp đồng lao động liên quan đến tiền lương, bảo hiểm xã hội. Do đó, quan hệ tranh chấp của vụ án là “Tranh chấp hợp đồng lao động về tiền lương, bảo hiểm xã hội”. Căn cứ theo quy định tại các Điều 32, 35, 39 và 40 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp.

Bị đơn Công ty T1 (đại diện là ông Nguyễn Anh N) vắng mặt tại phiên tòa được mở lần thứ hai không có lý do; ông Võ Sĩ N1 vắng mặt, nhưng có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Căn cứ các Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định.

[2] Về nội dung vụ án: Hội đồng xét xử xét thấy:

Tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh như sau:

“2. Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh.” Nguyên đơn anh T đã cung cấp Sổ bảo hiểm xã hội của anh T; Quyết định số 75-2023/QĐTV-MFC của Công ty T1 cho nhân viên (anh T) thôi việc ngày 14/11/2023; Biên bản về việc giải quyết tiền lương, bảo hiểm xã hội cho người lao động số 82/BB-KKT ngày 29/12/2023 của Ban Q; Biên bản hòa giải lao động ngày 11/3/2024 của Phòng Lao động Thương binh và Xã hội thành phố S để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp. Căn cứ nội dung Biên bản về việc giải quyết tiền lương, bảo hiểm xã hội cho người lao động số 82/BB-KKT ngày 29/12/2023 của Ban Q thì đại diện Công ty T1 thừa nhận việc chậm trả tiền lương tháng 10, tháng 11/2023 và nợ bảo hiểm xã hội năm 2022, 2023 người lao động của Công ty T1; Đại diện Công ty T1 có ý kiến cố gắng huy động toàn bộ nguồn lực đóng tiền chênh lệch bảo hiểm xã hội và thanh toán tiền lương cho người lao động trước ngày 04/02/2024.

Bảo hiểm xã hội thành phố Sa Đéc là cơ quan thu tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp anh T do Công ty F có trách nhiệm đóng, trình bày thống nhất với anh T về số tiền Công ty T1 chậm đóng và tiền lãi vào Bảo hiểm xã hội thành phố Sa Đéc cho anh T.

Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng cho bị đơn theo quy định, đã có thông báo để bị đơn cung cấp văn bản ý kiến và cung cấp tài liệu, chứng cứ đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Nhưng bị đơn không có văn bản trình bày ý kiến phản đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không đến Tòa án làm việc, không giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Do bị đơn không có ý kiến phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản mà nguyên đơn đưa ra; nên các tài liệu, văn bản, trình bày của nguyên đơn đưa ra là chứng cứ để giải quyết yêu cầu của nguyên đơn.

Căn cứ quy định tại các các Điều 48, 90, 94, 95, 168, khoản 1 Điều 188 và Điều 200 Bộ Luật lao động 2019; các Điều 17, khoản 8 Điều 18, khoản 2 Điều 21, Điều 22, Điều 23, 85, 86, khoản 3 Điều 122 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014; và quy định tại điểm a khoản 1 Điều 13, Điều 14, Điều 15, khoản 2 Điều 49 Luật Bảo hiểm y tế 2008, khoản 3 Điều 49 Luật Bảo hiểm y tế được sửa đổi bổ sung năm 2014; cùng các chứng cứ nguyên đơn cung cấp, Hội đồng xét xử xét thấy có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; buộc bị đơn Công ty T1 phải trả cho nguyên đơn anh T tiền lương từ ngày 01/10/2023 đến ngày 15/11/2023 số tiền là 10.212.675 đồng và đóng đủ tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp và tiền lãi do chậm đóng vào Bảo hiểm xã hội thành phố S cho anh T đến hết tháng 10/2023 số tiền là 13.053.588 đồng, tiếp tục đóng lãi cho đến khi đóng đầy đủ theo quy định của B.

[3] Hội đồng xét xử thống nhất với ý kiến của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sa Đéc về việc giải quyết vụ án.

[4] Về án phí lao động sơ thẩm: Do chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh T, nên Công ty T1 phải chịu toàn bộ tiền án phí sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 32, 35, 39, 40, 91, 92, 147, 227, 228, 264, 271, 273, 278 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 48, 90, 94, 95, 168, khoản 1 Điều 188 và Điều 200 Bộ Luật lao động 2019;

Căn cứ các Điều 357, 468 Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 17, khoản 8 Điều 18, khoản 2 Điều 21, Điều 22, Điều 23, 85, 86, khoản 3 Điều 122 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 13, Điều 14, Điều 15, khoản 2 Điều 49 Luật Bảo hiểm y tế 2008, khoản 3 Điều 49 Luật Bảo hiểm y tế được sửa đổi bổ sung năm 2014;

Căn cứ vào Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Lê Văn T.

Buộc Công ty Cổ phần T1 phải trả cho anh T tiền lương từ ngày 01/10/2023 đến ngày 15/11/2023 số tiền là 10.212.675đ (Mười triệu hai trăm mười hai nghìn sáu trăm bảy mươi lăm đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án, mà bên phải thi hành án chưa thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu trả tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Buộc Công ty Cổ phần T1 phải đóng đủ tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp và tiền lãi do chậm đóng vào Bảo hiểm xã hội thành phố S cho anh T đến hết tháng 10/2023 số tiền là 13.053.588đ (Mười ba triệu không trăm năm mươi ba nghìn năm trăm tám mươi tám đồng), tiếp tục đóng lãi cho đến khi đóng đầy đủ theo quy định của B.

2. Về án phí lao động sơ thẩm:

Công ty Cổ phần T1 phải chịu 698.000đ (Sáu trăm chín mươi tám nghìn đồng) án phí lao động sơ thẩm.

Anh Lê Văn T được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, do thuộc đối tượng được miễn và có đơn yêu cầu miễn nộp.

Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng lao động tiền lương, bảo hiểm xã hội số 05/2024/LĐ-ST

Số hiệu:05/2024/LĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sa Đéc - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành: 31/07/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;