Bản án về tranh chấp hợp đồng lao động số 10/2024/LĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 10/2024/LĐ-ST NGÀY 07/06/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG

Ngày 7 tháng 6 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 22/2024/TLST-LĐ ngày 03 tháng 4 năm 2024, về việc: “Tranh chấp về hợp đồng lao động”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 110/2024/QĐXXST-LĐ ngày 22/5/2024, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Phan Thị H, sinh năm 1992; Nơi thường trú: Ấp P, xã P, huyện P, tỉnh An Giang; Nơi tạm trú: Nhà trọ G, đường N, khu phố 3, phường M, thị xã B, tỉnh Bình Dương. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Công ty TNHH G; Trụ sở: Lô A, Khu công nghiệp M, phường C, thành phố B, tỉnh Bình Dương.

Người đại diện theo pháp luật: Ông CHENG TSUNG M – Chức vụ: Giám đốc.

Người đại diện hợp pháp của Công ty TNHH G: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1992; địa chỉ liên hệ: Lô A, Khu công nghiệp M, phường C, thành phố B, tỉnh Bình Dương, là đại diện theo ủy quyền (Theo văn bản ủy quyền ngày 24/4/2024). Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Bảo hiểm xã hội thành phố B, tỉnh Bình Dương; địa chỉ: Phường M, thị xã B, tỉnh Bình Dương.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Trọng K – Chức vụ: Giám đốc. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

2. Bảo hiểm xã hội thành phố T, tỉnh Bình Dương; địa chỉ: N, phường L, thành phố T, tỉnh Bình Dương.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Phan Minh H – Chức vụ: Giám đốc. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 01/4/2024 và trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn bà Phan Thị H trình bày:

Từ tháng 01/2013 đến tháng 05/2014 bà H làm việc tại Công ty TNHH S và được Công ty tham gia bảo hiểm xã hội cho bà H từ tháng 01/2013 đến tháng 05/2014 theo sổ bảo hiểm số 741311xxxx. Từ tháng 06/2014 đến tháng 08/2016 cho bà H làm việc tại Công ty TNHH K và được Công ty tham gia bảo hiểm xã hội cho tôi từ tháng tháng 06/2014 đến tháng 08/2016 theo sổ bảo hiểm số 741311xxxx. Từ tháng 09/2016 đến tháng 01/2023 cho bà H làm việc tại Công ty S; trụ sở: thửa đất 248, 249, tờ bản đồ số 14, khu phố B, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương và được Công ty tham gia bảo hiểm xã hội cho bà H từ tháng tháng 09/2016 đến tháng 01/2023 theo sổ bảo hiểm số 741311xxxx.Sau khi nghĩ việc, bà H đến bảo hiểm xã hội để thực hiện thủ tục nhận tiền bảo hiểm, lúc này bà mới được biết Công ty TNHH G; địa chỉ trụ sở: Lô A, Khu công nghiệp M, phường C, thành phố B, tỉnh Bình Dương tham gia bảo hiểm xã hội cho bà từ tháng 11/2014 đến tháng 03/2015 do đó bị trùng. Bà khẳng định từ tháng 11/2014 đến tháng 03/2015, bà không làm việc tại Công ty TNHH G nên bà không rõ lý do vì sao lại có sự việc này. Nay bà H yêu cầu Tòa án hủy Hợp đồng lao động ký kết trong thời gian tham gia bảo hiểm xã hội từ tháng 11/2014 đến tháng 03/2015 giữa người lao động có thông tin họ tên Phan Thị H với Công ty TNHH G. Bà không yêu cầu giải quyết hậu quả của Hợp đồng vô hiệu.

Quá trình tham gia tố tụng, bị đơn Công ty TNHH G– do bà Nguyễn Thị H đại diện trình bày:

Công ty TNHH G xác nhận vào thời điểm từ tháng 11/2014 đến tháng 03/2015, phía công ty có tuyển dụng và nhận được hồ sơ xin tuyển dụng của người lao động có thông tin: Phan Thị H, sinh năm: 1989; CMND 35183xxxx do Công an tỉnh An Giang cấp ngày 04/01/2004. Phía công ty có ký kết hợp đồng lao động và nhận vào làm việc, tham gia bảo hiểm xã hội cho người lao động trong thời gian làm việc tại công ty từ tháng 11/2014 đến tháng 03/2015. Sau đó người lao động nghỉ việc. Do thời gian đã lâu và qua nhiều lần thay thế nhân sự phụ trách lưu kho, sổ sách nên hồ sơ của người lao động phía công ty không còn lưu trữ. Đến nay, phía công ty xác nhận, không xác định được người lao động thực tế đã làm việc tại công ty có đúng với người lao động có thông tin thể hiện trong hợp đồng lao động hay không. Đến khi công ty nhận được thông báo thụ lý vụ án của Tòa án thì công ty mới biết có sự trùng sổ bảo hiểm theo đơn khởi kiện của nguyên đơn.

Nay đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, công ty xin trình bày toàn bộ nội dung liên quan đến hồ sơ của người lao động có tên Phan Thị H. Đề nghị Tòa án căn cứ tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ để giải quyết vụ án theo quy định pháp luật. Trường hợp Tòa án tuyên bố Hợp đồng lao động ký kết trong thời gian từ tháng 11/2014 đến tháng 03/2015 giữa bà Phan Thị H với Công ty TNHH G là vô hiệu thì Công ty TNHH G không yêu cầu giải quyết hậu quả của Hợp đồng vô hiệu.

Quá trình tham gia tố tụng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Bảo hiểm xã hội thành phố B trình bày:

Công ty TNHH G đóng bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm thất nghiệp, Bảo hiểm tai nạn lao động- Bệnh nghề nghiệp cho thông tin Phan Thị H, sinh ngày 4/4/1992, số căn cước công dân 08919202xxxx, với mã số BHXH: 741311xxxx từ tháng 11/2014 đến tháng 03/2015. Bảo hiểm xã hội thành phố B đã thực hiện chốt sổ đối với mã số 741311xxxx ngày 15/11/2019, bà Phan Thị H chưa hưởng chế độ 1 lần, chưa hưởng trợ cấp thất nghiệp.

Quá trình tham gia tố tụng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Bảo hiểm xã hội thành phố T trình bày:

Công ty TNHH S đóng bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm thất nghiệp, Bảo hiểm tai nạn lao động- Bệnh nghề nghiệp cho thông tin Phan Thị H, sinh ngày 4/4/1992, số căn cước công dân 08919202xxxx, với mã số BHXH: 741311xxxx từ tháng 04/2013 đến tháng 05/2014.

Công ty TNHH K đóng bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm thất nghiệp, Bảo hiểm tai nạn lao động- Bệnh nghề nghiệp cho thông tin Phan Thị H, sinh ngày 4/4/1992, số căn cước công dân 08919202xxxx, với mã số BHXH: 741311xxxx từ tháng 06/2014 đến tháng 08/2016.

Công ty TNHH S đóng bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm thất nghiệp, Bảo hiểm tai nạn lao động- Bệnh nghề nghiệp cho thông tin Phan Thị H, sinh ngày 4/4/1992, số căn cước công dân 08919202xxxx, với mã số BHXH: 741311xxxx từ tháng 09/2016 đến tháng 01/2023.

Bảo hiểm xã hội thành phố T đã thực hiện chốt sổ đối với mã số 741311xxxx ngày 03/4/2023, bà Phan Thị H chưa hưởng chế độ 1 lần, đã hưởng trợ cấp thất nghiệp số 26859, ngày 8/5/2023.

Tại phiên tòa, nguyên đơn, đại diện hợp pháp của bị đơn vắng mặt, có đơn đề nghị xử vắng mặt.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến tại phiên tòa:

Về tố tụng: Người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Tại phiên tòa, nguyên đơn, người đại diện hợp pháp của bị đơn, người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xử vắng mặt. Do đó căn cứ vào khoản 1 Điều 227; khoản 2 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử theo quy định.

[1.2] Các bên không cung cấp được tài liệu, chứng cứ là Hợp đồng lao động giữa Công ty TNHH G và bà Phan Thị H. Tuy nhiên, Công ty TNHH G thừa nhận có Hợp đồng nhưng thời gian đã lâu nên thất lạc. Như vậy có tồn tại Hợp đồng lao động giữa Công ty TNHH G và người lao động có thông tin họ tên Phan Thị H. Đây là tài liệu, chứng cứ không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Qua tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án Hội đồng xét xử xét thấy: Bà Phan Thị H và Công ty TNHH K có ký kết hợp đồng lao động và bà làm việc tại Công ty từ tháng 06/2014 đến tháng 08/2016 thì nghỉ, được công ty tham gia BHXH, BHYT đầy đủ. Quá trình tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp của bà H được thể hiện đầy đủ tại sổ bảo hiểm xã hội sổ số:

741311xxxx.

Bị đơn Công ty TNHH G xác nhận có ký kết hợp đồng lao động với người lao động có tên Phan Thị H và có tham gia BHXH, BHTN cho người lao động từ tháng 11/2014 đến tháng 03/2015, sau đó chấm dứt việc làm. Hiện hồ sơ công ty không còn lưu giữ, cũng không xác định được người làm việc trên thực tế có đúng với thông tin của người lao động trong hồ sơ xin việc hay không.

Như vậy, Công ty TNHH G và Công ty TNHH K tham gia bảo hiểm xã hội cho bà H từ tháng 11/2014 đến tháng 03/2015. Tuy nhiên, thực tế bà H chỉ làm việc tại Công ty TNHH K, không làm việc tại Công ty TNHH G. Do đó, hợp đồng ký kết giữa người lao động có thông tin họ tên Phan Thị H và Công ty TNHH G vô hiệu do vi phạm quy định tại Điều 122 và điểm b, c khoản 1 Điều 117.

[2.2] Hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu được xác định theo quy định tại Điều 131 Bộ luật dân sự. Tuy nhiên, nguyên đơn, bị đơn đều không xác định được người đã có thời gian thực tế làm việc tại Công ty TNHH G nên không yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu.

[2.2] Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[2.3] Về án phí: Yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí lao động sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 219; Điều 227; Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng 127; 131 của Bộ luật dân sự;

Áp dụng Điều 49, 50, 51 Bộ luật Lao động năm 2019;

Áp dụng Điểm a khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị H về việc “tranh chấp về hợp đồng lao động” với bị đơn Công ty TNHH G.

Tuyên bố Hợp đồng lao động giao kết giữa bà Phan Thị H và Công ty TNHH G từ tháng 11/2014 đến tháng 03/2015, vô hiệu.

2. Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí lao động sơ thẩm số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).

Nguyên đơn, đại diện hợp pháp của bị đơn, đại diện hợp pháp của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng lao động số 10/2024/LĐ-ST

Số hiệu:10/2024/LĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành: 07/06/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;