TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 13/2024/KDTM-ST NGÀY 26/09/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG KINH TẾ, THI CÔNG LẮP ĐẶT BIỂN QUẢNG CÁO
Ngày 26 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Sơn Trà xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 27/2024/TLST-KDTM ngày 31 tháng 7 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng kinh tế về việc lắp đặt biển quảng cáo” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2024/QĐXXST-KDTM ngày 13 tháng 9 năm.
Nguyên đơn: Công ty TNHH Nội thất quảng cáo 07;
Địa chỉ: số 213 đường Nguyễn Hàng Chi, quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đặng Hữu P, chức vụ: Giám đốc
Bị đơn: Công ty Cổ phần dịch vụ Giải Trí T;
Địa chỉ chi nhánh: số 81 đường Hồ Nghinh, phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng;
Người đại diện theo pháp luật: bà Đỗ Thị Hiền L, chức vụ: Tổng giám đốc Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Lê Bá Hải S, sinh năm 1985; Nơi cư trú: 187 Lê Văn Lương, xã Phước Kiển, huyện Nhà Bè, TP Hồ Chí Minh, ông S có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Ông Trần Đức M; số 81 đường Hồ Nghinh, phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn – ông Đặng Hữu P trình bày:
Ngày 12/04/2022, Công ty Cổ phần dịch vụ giải trí T - Chi nhánh Đà Nẵng (sau đây gọi là: Bên giao thầu) có ký Hợp đồng thi công số 0168/HĐTC/2022 với Công ty TNHH Nội thất Quảng cáo 07 (sau đây gọi là: Bên nhận thầu).
Trong Hợp đồng thi công số 0168/HĐTC/2022, Bên nhận thầu thực hiện lắp đặt công trình làm biển hiệu cho bên giao thầu tại Khách sạn EX DANANG BEACH ở địa chỉ số 81 Hồ Nghinh, phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Giá trị hợp đồng theo đơn giá là: 308.880.000đ (Ba trăm lẻ tám triệu, tám trăm, tám mươi nghìn đồng). Tiến độ thanh toán theo hợp đồng như sau:
Đợt 1: 123.552.000 đồng (Một trăm hai mươi ba triệu năm trăm năm mươi hai nghìn đồng), tạm ứng 40% ngay sau khi ký hợp đồng.
Đợt 2: 169.884.000 đồng (Một trăm sáu mươi chín triệu tám trăm tám mươi bốn nghìn đồng), thanh toán 55% (sau khi hai bên ký biên bản nghiệm khu bàn giao công trình, xuất hóa đơn hợp lệ).
Đợt 3: 15.444.000 đồng (Mười lăm triệu bốn trăm bốn mươi bốn nghìn đồng).
Do bên giao thầu không tiếp tục thực hiện việc thi công, lắp đặt logo nên bên nhận thầu đã khấu trừ 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) chi phí không lắp đặt và bảo hành cho Bên giao thầu. Vì vậy, số tiền Bên giao thầu phải thanh toán cho Bên nhận thầu là: 308.880.000 đồng - 20.000.000 đồng = 288.880.000 đồng.
Và theo Điều 3.1 của Hợp đồng thi công về trách nhiệm của các bên thì Bên giao thầu có trách nhiệm:
“Bàn giao mặt bằng, cung cấp thông tin chính xác, đủ để bên B hoàn thành công trình đúng tiến độ.
Hỗ trợ bên B các thủ tục cần thiết để bên B vận chuyển, thi công tại công trình.
Thanh toán đầy đủ và đúng hạn, đúng phương thức thỏa thuận tại điều 2 của hợp đồng này.
Trực tiếp và/hoặc cử người đại diện hợp pháp để cùng bên B bàn bạc, giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình bên B thực hiện công trình.” Tuy nhiên, trên thực tế khi thực hiện thi công công trình, bên giao thầu không tiến hành bàn giao mặt bằng đúng như thỏa thuận khiến cho việc lắp đặt bộ chữ Logo không theo đúng tiến độ. Bên nhận thầu mới tiến hành lắp ghép được 1/3 bộ; 2 bộ còn lại bên nhận thầu lưu kho và đến ngày 02/02/2024 mới bàn giao được (có biên bản bàn giao kèm theo, người nhận là anh Trần Đức M).
Hơn nữa, bên giao thầu cũng không thanh toán cho bên nhận thầu theo các đợt mà hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng. Sau nhiều lần trao đổi thông qua các ứng dụng điện tử như zalo, email... và gửi đơn đề nghị thanh toán công nợ, nhưng đến ngày 22/02/2024, Bên giao thầu mới thanh toán cho Bên nhận thầu số tiền là 110.000.000đ (Một trăm mười triệu đồng) + 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) tiền khấu trừ. Như vậy, bên giao thầu còn phải trả cho bên nhận thầu số tiền là: 178.880.000đ (Một trăm bảy tám triệu tám trăm tám mươi nghìn đồng). Bên giao thầu đã thanh toán cho bên nhận thầu các đợt như sau:
Việc bên giao thầu không thực hiện đúng các điều khoản trong hợp đồng và không thanh toán số tiền còn lại của hợp đồng là: 178.880.000đ (Một trăm bảy tám triệu tám trăm tám mươi nghìn đồng) cho bên nhận thầu đã làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Bên nhận thầu.
Yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề sau:
Buộc Công ty Cổ phần dịch vụ giải trí T phải thanh toán toàn bộ tiền nợ gốc và nợ lãi cho Công ty TNHH Nội thất Quảng cáo 07, cụ thể như sau:
- Nợ gốc: 178.880.000 đồng (Một trăm bảy mươi tám triệu tám trăm tám mươi nghìn đồng).
- Trong quá trình giải quyết vụ án Công ty TNHH Nội thất Quảng cáo 07 yêu cầu tính lãi suất, tại phiên toà hôm nay đại diện theo pháp luật * Bị đơn Công ty cổ phần dịch vụ Giải Trí T đã được Toà án nhân dân quận Sơn Trà đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, tuy nhiên bị đơn vắng mặt trong tất cả các buổi hoà giải cũng như xét xử do đó Toà án không tiền hành lấy lời khai được.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Đức M trình bày ý kiến: Vào thời điểm năm 2022 đến 2024 ông làm việc cho Công ty cổ phần giải trí T, địa chỉ số 81 đường Hồ Nghinh, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng. Ông được biết giữa Công ty Giải Trí T có ký hợp đồng với Công ty TNHH Quảng cáo 07 về việc lắp đặt biển quảng cáo tại công trình khách sạn, sau khi ký hợp đồng Công ty TNHH Quảng cáo 07 đã lắp đặt được 1 biển quảng cáo ở phía trên sân thượng của khách sạn, còn hai biển chưa lắp đặt được nên ngày 02/02/2024 tôi đại diện Công ty cổ phần dịch vụ Giải Trí T đã đứng ra nhận hai biển quảng cáo từ Công ty TNHH Quảng cáo 07. Sau khi nhận hai biển quảng cáo thì ông cho lưu kho tại công trình trình khách sạn, số 81 đường Hồ Nghinh. Việc khởi kiện của Công ty TNHH Quảng cáo 07 đối với Công ty Giải Trí T là đúng. Hiện nay ông đã nghỉ làm tại Công ty Giải Trí T, vì công việc ông không tham gia phiên toà được. Do đó đề nghị Toà án căn cứ vào lời khai của ông để xét xử, ông đề nghị Toà án xét xử vằng mặt ông.
* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm HĐXX nghị án án như sau:
Đối với việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, thư ký từ khi thụ lý đến thời điểm xét xử: Thẩm phán, Thư ký tuân thủ đầy đủ các qui định của Bộ luật tố tụng dân sự;
Đối với HĐXX: Tại phiên tòa HĐXX thực hiện đúng nguyên tắc xét xử và thành phần HĐXX theo quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự;
Đối với người tham gia tố tụng: Nguyên đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã chấp hành đầy đủ. Riêng bị đơn chưa chấp hành chưa đầy đủ quy định của pháp luật.
Về quan điểm giải quyết vụ án:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện về việc “Tranh chấp hợp đồng kinh về việc lắp đặt biển quảng cáo” của Công ty TNHH nội thất quảng cáo 07 đối với Công ty Cổ phần dịch vụ Giải Trí T.
Buộc Công ty Cổ phần dịch vụ Giải Trí T phải trả cho Công ty TNHH nội thất quảng cáo 07 số tiền nợ 178.880.000đ (Một trăm bảy mươi tám triệu tám trăm tám mươi ngàn đồng).
- Đình chỉ đối với yêu cầu tính lãi suất của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Tranh chấp hợp đồng kinh tế về việc thi công lắp đặt biển quảng cáo giữa Công ty TNHH nội thất quảng cáo 07 và Công ty Cổ phần dịch vụ Giải Trí T – nơi thực hiện hợp đồng là số 81 Hồ Nginh, phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng theo quy định tại khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35 và điểm b khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Trong quá trình giải quyết vụ án ông Lê Bá Hải S cung cấp nghị quyết của Hội đồng quản trị về việc miễn nhiệm chức Tổng giám đốc – người đại diện theo pháp luật. Theo đó bầu bà Đỗ Thị Hiền L – chức vụ Tồng giám đốc là người đại diện theo pháp luật thay ông Lê Bá Hải S. Toà án tiến hành gửi thông báo cho bà L tuy nhiên bà L không có mặt nên thuộc trường hợp triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt đến lần thứ hai nên thuộc trường hợp xét xử vắng mặt theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự. HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
[2] Về nội dung:
[2.1 Hợp đồng thi công số 0168/HĐTC/2022 giữa Công ty Cổ phần dịch vụ Giải Trí T với Công ty TNHH nội thất quảng cáo 07 thực hiện lắp đặt công trình làm biển hiệu quảng cáo tại Khách sạn EX DANANG BEACH ở địa chỉ số 81 Hồ Nghinh, phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng được ký kết trên cơ sở tự nguyện, không trái pháp luật, đạo đức xã hội, tuân thủ các quy định của pháp luật về nội dung và hình thức nên được thừa nhận và bảo vệ. Các bên tham gia trong giao dịch này có mọi quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đã ký kết nói trên.
[2.2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì thấy:
Hợp đồng thi công số 0168/HĐTC/2022, giữa Công ty Cổ phần dịch vụ Giải Trí T với Công ty TNHH nội thất quảng cáo 07 thực hiện lắp đặt công trình làm biển hiệu quảng cáo tại Khách sạn EX DANANG BEACH có giá trị thoả thuận theo hợp đồng là: 308.880.000đ (Ba trăm lẻ tám triệu, tám trăm, tám mươi nghìn đồng).
Sau khi ký hợp đồng, phía Công ty Cổ phần dịch vụ Giải Trí T không thể bàn giao mặt bằng để tiếp tục thực hiện việc thi công, lắp đặt logo nên bên Công ty TNHH nội thất quảng cáo 07 đã khấu trừ 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) chi phí không lắp đặt và bảo hành cho bên giao thầu. Vì vậy, giá trị của hợp đồng còn lại là 288.880.000 đồng.
Thực hiện hợp đồng, Công ty TNHH nội thất quảng cáo 07 đã hoàn thành tất cả 03 biển quảng cáo. Qua xem xét thẩm định tại chỗ của Toà án nhân dân quận Sơn Trà cho thấy trong số 03 biển quảng cáo thì phía Công ty TNHH nội thất quảng cáo 07 đã lắp đặt 1 biển quảng cáo có dòng chữ EX DANANG BEACH phía trên cùng của toà nhà khách sạn. Hai biển quảng cáo còn lại hiện đang được lưu kho tại công trình khách sạn . Điều này cũng phù hợp với bản khai của ông Trần Đức M người trực tiếp ký nhận bàn giao hai biển quảng cáo từ Công ty TNHH nội thất quảng cáo 07. Sau khi nhận thì ông M cho lưu kho tại số 81 đường Hồ Nghinh, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng. Như vậy cho thấy phía Công ty TNHH nội thất quảng cáo 07 đã thực hiện xong hợp đồng.
Giá trị hợp đồng theo đơn giá là: 308.880.000đ (Ba trăm lẻ tám triệu, tám trăm, tám mươi nghìn đồng) khấu trừ 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) chi phí không lắp đặt và bảo hành, trư đi số tiền tạm ứng 110.000.000đ, giá trị của hợp đồng còn lại 178.880.000đ. Số tiền 178.880.000đ Công ty Cổ phần dịch vụ Giải Trí T chưa thanh toán cho Công ty TNHH nội thất quảng cáo 07 phù hợp với thư trao đổi mail giữa hai bên ngày 15/01/2024 Công ty TNHH nội thất quảng cáo 07 có gửi mail cho Công ty Cổ phần dịch vụ Giải Trí T về việc đối chiếu và chốt công nợ, cùng ngày Công ty Cổ phần dịch vụ Giải Trí T cũng có văn bản thống nhất số tiền mà Công ty Cổ phần dịch vụ Giải Trí T đã thanh toán và số tiền còn nợ lại Công ty TNHH nội thất quảng cáo 07 nhưng do phía công ty còn khó khăn nên sẽ sắp xếp trả sau, đây được xem là văn bản đối chiếu công nợ giữa hai bên.
Do đó việc khởi kiện của Công ty TNHH nội thất quảng cáo 07 yêu cầu Công ty Cổ phần dịch vụ Giải Trí T trả số tiền còn thiếu sau khi thực hiện hợp đồng là có căn cứ nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH nội thất quảng cáo. Buộc Công ty Cổ phần dịch vụ Giải Trí T phải trả cho Công ty TNHH nội thất quảng cáo 07 số tiền còn nợ lại là 178.880.000đ.
[3] Đối với việc rút yêu cầu lãi suất của Công ty TNHH nội thất quảng cáo 07 thì thấy: Trong quá trình giải quyết vụ án Nguyên đơn có yêu cầu tính lãi suất, tại phiên toà đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH nội thất quảng cáo 07 rút yêu cầu về tính lãi suất. Việc rút yêu cầu của nguyên đơn là hoàn toàn tự nguyện do đó HĐXX cần đình chỉ đối với yê cầu tính lãi suất này.
[4] Về án phí: Do yêu cầu của Công ty TNHH nội thất quảng cáo 07 được chấp nhận nên Công ty giải trí T phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm trên số tiền được chấp nhận theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Cụ thể số tiền án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm Công ty giải trí T phải chịu là 9.853.592đ.
- Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 3.000.000đ Công ty giải trí T phải chịu nhưng do Công ty TNHH nội thất quảng cáo 07 đã tạm ứng trước nên Công ty giải trí T phải trả lại 3.000.000đ cho Công ty TNHH nội thất quảng cáo 07.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35 và điểm b khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 266 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 50, Điều 306 Luật thương mại;
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện về việc “Tranh chấp hợp đồng kinh về việc lắp đặt biển quảng cáo” của Công ty TNHH nội thất quảng cáo 07 đối với Công ty Cổ phần dịch vụ Giải Trí T.
Xử:
1. Buộc Công ty Cổ phần dịch vụ Giải Trí T phải trả cho Công ty TNHH nội thất quảng cáo 07 số tiền nợ 178.880.000đ (Một trăm bảy mươi tám triệu tám trăm tám mươi ngàn đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Đình chỉ đối với yêu cầu tính lãi suất của Công ty TNHH nội thất quảng cáo 07 đối với Công ty Cổ phần dịch vụ Giải Trí T.
3. Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: 8.944.000đ Công ty Cổ phần dịch vụ Giải Trí T phải chịu.
- Hoàn trả cho Công ty TNHH nội thất quảng cáo 07 số tiền tạm ứng án 6.390.671đ đã nộp tại biên lai thu số 0002773 ngày 30/7/2024 của Chi cục thi hành án dân sự quận Sơn Trà.
- Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 3.000.000đ Công ty giải trí T phải chịu nhưng do Công ty TNHH nội thất quảng cáo 07 đã tạm ứng trước nên Công ty giải trí T phải trả lại 3.000.000đ cho Công ty TNHH nội thất quảng cáo 07.
Báo cho các bên đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự
Bản án về tranh chấp hợp đồng kinh tế, thi công lắp đặt biển quảng cáo số 13/2024/KDTM-ST
Số hiệu: | 13/2024/KDTM-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 26/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về