TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỂU CẦN, TỈNH TRÀ VINH
BẢN ÁN 58/2022/DS-ST NGÀY 19/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI
Trong ngày 19 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiểu Cần xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 173/2021/TLST-DS, ngày 02 tháng 12 năm 2021, về việc “Tranh chấp hợp đồng góp hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2022/QĐXXST-DS ngày 30 tháng 3 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số: 52/2022/QĐTS-DS, ngày 27 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Sơn Thị H, sinh năm 1969 (có mặt);
Địa chỉ: Ấp T, xã Tr, huyện C, tỉnh Trà Vinh
- Bị đơn: Anh Thạch Ch, sinh năm 1960 và chị Sơn Thị Sa V, sinh năm 1972 (vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Ấp Tr, xã H, huyện C, tỉnh Trà Vinh;
Người phiên dịch tiếng Khmer: Ông Thạch Thia R – Giáo viên hưu trí (có mặt);
Địa chỉ: Ấp Cây H, xã Phú Cần, huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 20/10/2021 và lời khai trong quá trình tham gia tố tụng nguyên đơn chị Sơn Thị H trình bày: Chị có tham gia 01 phần hụi do chị Sơn Thị Sa V làm đầu thảo, loại hụi 5.000.000 đồng, thỏa thuận lời nói ai kêu thăm cao thì hốt hụi, trừ hoa hồng đầu thảo là 1.500.000 đồng, có 16 phần hụi, dây hụi số 06, hụi mở ngày 09/02/2020, 01 tháng khui hụi 02 lần. Trong dây hụi chị Sa V ghi chị tên “Huyên Hùng”. Hụi khui được 06 kỳ thì chị Sa V không khui hụi tiếp và cho rằng vỡ hụi. Chị đã đóng hụi sống cho chị Sa V 06 lần với số tiền là 11.920.000 đồng.
Theo đơn khởi kiện ban đầu thì anh yêu cầu chị Sơn Thị Sa V và anh Thạch Ch cùng liên đới trả cho chị là 11.920.000 đồng và không yêu cầu tính lãi. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay anh xin thay đổi yêu cầu khởi kiện là chỉ yêu cầu cá nhân chị Sơn Thị Sa V trả cho chị số tiền là 11.920.000 đồng và không yêu cầu tính lãi.
Bị đơn chị Sơn Thị Sa V vắng mặt nhưng theo biên bản lấy lời khai ngày 31 tháng 3 năm 2022 có nội dung:
Chị có làm đầu thảo, loại hụi 5.000.000 đồng, thỏa thuận lời nói hụi 01 tháng khui 02 lần, ai kêu thăm cao sẽ hốt hụi, trừ hoa hồng đầu thảo là 1.500.000 đồng, dây hụi khui lần đầu vào ngày 09/02/2020, có 16 phần hụi, dây số 06. Chị Sơn Thị H tham gia 01 phần đóng hụi sống cho chị đến lần thứ 06 với số tiền là 11.920.000 đồng, lần thứ 07 chị ngưng khui hụi do các hụi viên không đóng hụi, Chị thừa nhận còn nợ tiền hụi sống chị Sơn Thị H với số tiền 11.920.000 đồng chị đồng ý trả nhưng với điều kiện là phải chờ chị khởi kiện người khác lấy được tiền mới có tiền trả cho chị H.
Những vấn đề mà các đương sự đã thống nhất:
Chị Sơn Thị Sa V thừa nhận còn nợ chị Sơn Thị H số tiền hụi là 11.920.000 đồng. Chị H không yêu cầu tính lãi.
Những vấn đề các đương sự không thống nhất:
Chị H yêu cầu chị Sa V trả số tiền hụi còn nợ là 11.920.000 đồng Chị Sa V đồng ý trả cho chị H số tiền hụi còn nợ là 11.920.000 đồng nhưng với điều kiện là phải chờ chị khởi kiện người khác lấy được tiền mới có tiền trả cho chị H.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đúng trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn tham gia tố tụng trong vụ án đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, riêng bị đơn chưa chấp đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm.
Về nội dung vụ án: Chị Sa V thừa nhận có làm chủ đầu thảo và chị H có tham gia 01 phần hụi trong dây hụi số 06 và còn nợ chị H số tiền là 11.920.000 đồng nhưng chị Sa V chưa đồng ý trả cho chị H mà đề nghị chị H đợi khi nào các hụi viên khác trả tiền hụi cho chị thì chị mới trả tiền cho chị H. Chị Sa V là chủ đầu thảo hụi có hưởng hoa hồng phải trả tiền hụi vốn mà các hụi viên đã đóng nhưng chị Sa V không thực hiện nghĩa vụ của chủ hụi đối với hụi viên khi có yêu cầu mà yêu cầu đợi các hụi viên khác trả tiền hụi cho chị thì chị mới trả cho chị H là đã vi phạm nghĩa vụ của chủ hụi đối với hụi viên còn sống, nên lời trình bày của chị về phương thức trả nợ là không có căn cứ, từ những phân tích trên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc chị Sa V có nghĩa vụ trả cho chị H số tiền là 11.920.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về nội dung vụ án: Nguyên đơn tranh chấp với bị đơn số tiền vốn gốc góp hụi là 11.920.000 đồng là có thật mặc dù các bên không có lập thành hợp đồng nhưng bị đơn có lập danh sách hụi và giao cho nguyên đơn giữ, khi thực hiện hợp đồng các bên có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, các bên thực hiện hợp đồng hoàn toàn tự nguyện, mục đích của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Việc các bên thực hiện hợp đồng góp hụi bằng lời nói là phù hợp quy định tại Điều 119 và Điều 471 của Bộ luật Dân sự năm 2015, do đó hợp đồng có hiệu lực đối với các bên.
[2] Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì thì chị Sơn Thị Sa V thừa nhận có làm đầu thảo, loại hụi 5.000.000 đồng, thỏa thuận lời nói hụi 01 tháng khui 02 lần, ai kêu thăm cao sẽ hốt hụi, trừ hoa hồng đầu thảo là 1.500.000 đồng, dây hụi khui lần đầu vào ngày 09/02/2020, có 16 phần hụi, dây số 06. Chị Sa V thừa nhận còn nợ chị H số tiền hụi sống đã đóng là 11.920.000 đồng nhưng chưa trả. Hội đồng xét xử xét thấy đây là tình tiết không phải chứng minh phù hợp với quy định tại Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vì nguyên đơn chị H đưa ra yêu cầu và bị đơn chị Sa V đã thừa nhận. Việc nguyên đơn yêu cầu khởi kiện là thực hiện đúng quyền của hụi viên được quy định tại Điều 15 của Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chỉnh Phủ quy định “Về họ, hụi, biêu, phường”. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.
[3] Nguyên đơn xin thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện là chỉ yêu cầu cá nhân chị Sa V trả nợ mà không yêu cầu anh Chiên cùng liên đới trả nợ, việc thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là hoàn toàn tự nguyện và không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự, do đó Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[4] Đối với ý kiến của chị Sa V cho rằng chị đồng ý trả nợ nhưng với điều kiện là phải chờ chị khởi kiện người khác lấy được tiền mới có tiền trả chị H là không có cơ sở chấp nhận vì chị thừa nhận có nợ thì phải có trách nhiệm trả nợ cho chị H theo quy định của pháp luật.
[5] Xét thấy đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ.
[6] Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, 35, 39, 91, 92, 147, khoản 1 Điều 244, 227, 228, 273 và 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Áp dụng các Điều 117, 119, 429, khoản 2 Điều 468, 471 của Bộ Luật Dân sự năm 2015;
Áp dụng Nghị định số: 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ quy định “Về họ, hụi, biêu, phường”.
Áp dụng Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Sơn Thị H.
Buộc chị Sơn Thị Sa V có nghĩa vụ trả cho chị Sơn Thị H số tiền là 11.920.000 đồng (Mười một triệu chín trăm hai mươi nghìn đồng). Chị H không yêu cầu tính lãi.
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của bên được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án), cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
đồng.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc chị Sơn Thị Sa V phải chịu là 596.000 Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả lại cho chị Sơn Thị H số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0002864, ngày 01/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiểu Cần.
3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án riêng bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày Bản án được niêm yết công khai để xin xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 58/2022/DS-ST
Số hiệu: | 58/2022/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tiểu Cần - Trà Vinh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 19/05/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về