Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 54/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 54/2022/DS-ST NGÀY 12/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Ngày 12 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 193/2022/TLST- DS ngày 39 tháng 5 năm 2022 về việc “Tranh chấp Hợp đồng góp hụi”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 340/2022/QĐXXST-DS ngày 22 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn X, sinh năm 1972; địa chỉ: ấp KB1, xã KA, huyện CM, tỉnh An Giang; có mặt.

2. Bị đơn: Bà Lê Thị Th, sinh năm 1970; địa chỉ: ấp HT, xã KA, huyện CM, tỉnh An Giang; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Nguyễn Văn X trình bày, bà Lê Thị Th có tham gia chơi hụi do tôi làm chủ hụi. Cụ thể bà Th tham gia làm thành viên hụi của 05 dây hụi nhưng tên ghi trong các sổ hụi là “Vợ Dũng”. Các dây hụi mà tôi tổ chức đăng ký hay trình báo với Ủy ban nhân dân xã.

- Dây hụi thứ nhất: hụi 5.000.000 đồng, hụi có lãi, dây hụi bắt đầu từ ngày 06/3/2020 (âm lịch); mở hụi vào ngày 06/3 (âm lịch) hàng tháng; các bên tham gia hụi thỏa thuận hoa hồng đối với chủ hụi là 2.000.000 đồng. Dây hụi gồm 22 hụi viên, bà Th tham gia 01 phần hụi, bà Th đã góp được 15 kỳ hụi, còn 07 kỳ hụi chưa góp. Bà Th đã lãnh hụi ngày 06/4/2020. Khi lãnh hụi bà Th đưa ra số tiền lãi là 700.000 đồng và tôi đã thu gom tiền hụi của các thành viên đưa lại cho bà Th 91.000.000 đồng, và bà Th đưa tiền hoa hồng cho tôi là 2.000.000 đồng, tổng bà Th được nhận là 89.000.000 đồng. Khi đưa tiền thì tôi không làm giấy giao nhận, ngày giao tiền là ngày 10/4/2020 (âm lịch). Dây hụi đã kết thúc vào ngày 06/11/2021 (âm lịch). Số tiền mà bà Th phải đóng lại là 7 kỳ x 5.000.000 đồng = 35.000.000 đồng.

- Dây hụi thứ 2: hụi 5.000.000 đồng, hụi có lãi, dây hụi bắt đầu từ ngày 10/10/2019 (âm lịch); mở hụi vào ngày 10/10 (âm lịch) hàng tháng; các bên tham gia hụi thỏa thuận hoa hồng đối với chủ hụi là 2.00.000 đồng; Dây hụi gồm 22 hụi viên, bà Th tham gia 01 phần hụi; bà Th đã góp được 19 kỳ hụi, còn 03 kỳ hụi chưa góp. Bà Th đã hốt hụi ngày 10/11/2019. Khi lãnh hụi bà Th đưa ra số tiền lãi là 700.000 đồng và tôi đã thu gom tiền hụi của các thành viên đưa bà Th 91.000.000 đồng, bà Th đưa tiền hoa hồng cho tôi là 2.000.000 đồng, tổng cộng số tiền bà Th nhận là 89.000.000 đồng. Khi đưa tiền thì tôi không làm giấy giao nhận, ngày giao tiền là ngày 15/11/2019 (âm lịch). Dây hụi đã kết thúc ngày 10/6/2021 (âm lịch). Số tiền mà bà Th phải đóng lại là 3 kỳ x 5.000.000 đồng = 15.000.000 đồng.

- Dây hụi thứ 3: hụi 5.000.000 đồng, hụi có lãi, dây hụi bắt đầu từ ngày 15/4/2020 (âm lịch, năm 2020 nhuần 02 tháng 4); các bên tham gia hụi thỏa thuận hoa hồng đối với chủ hụi là 2.000.000 đồng. Dây hụi gồm 22 hụi viên, bà Th tham gia 01 phần hụi; bà Th đã góp được 14 kỳ hụi, còn 08 kỳ hụi chưa góp.

Bà Th đã hốt hụi ngày 15/4/2020 (âm lịch, tháng 4 sau của năm nhuần 02 tháng 4). Khi lãnh hụi bà Th đưa ra số tiền lãi là 700.000 đồng và tôi đã thu gom tiền hụi của các thành viên đưa bà Th 91.000.000 đồng, và bà Th đưa tiền hoa hồng cho tôi là 2.000.000 đồng, tổng số tiền bà Th đã nhận là 89.000.000 đồng, ngày giao tiền là ngày 20/4/2020 (tháng 4 sau), khi đưa tiền thì tôi không làm giấy giao nhận. Dây hụi đã kết thúc ngày 15/12/2021 (âm lịch). Số tiền mà bà Th phải đóng lại là 8 kỳ x 5.000.000 đồng = 40.000.000 đồng.

- Dây hụi thứ 4: hụi 2.000.000 đồng, hụi có lãi, dây hụi bắt đầu từ ngày 20/5/2020 (âm lịch); các bên tham gia hụi thỏa thuận hoa hồng đối với chủ hụi là 1.00.000 đồng. Dây hụi gồm 22 hụi viên, bà Th tham gia 02 phần hụi; bà Th đã góp được 12 kỳ hụi x 02 phần = 24 kỳ hụi, còn 10 kỳ hụi x 02 phần = 20 kỳ hụi chưa góp. Bà Th lãnh hụi 02 lần cho 02 phần hụi, cụ thể:

+ Phần hụi thứ nhất: bà Th lãnh ngày 20/6/2020 (âm lịch); bà Th đưa ra số tiền lãi là 300.000 đồng và tôi đã thu tiền hụi của các thành viên đưa cho bà Th 36.000.0000 đồng vào ngày 25/6/2020 (âm lịch); khi giao tiền thì không làm giấy giao nhận. Bà Th đưa cho tôi 1.000.000 đồng tiền hoa hồng; tổng số tiền tôi đưa cho bà Th là 35.000.000 đồng.

+ Phần hụi thứ 2: bà Th lãnh hụi ngày 20/7/2020 (âm lịch); bà Th đưa ra tiền lãi là 300.000 đồng và tôi đã tôi đã thu tiền hụi của các thành viên đưa cho bà Th 36.300.0000 đồng vào ngày 25/7/2020 (âm lịch); khi giao tiền thì không làm giấy giao nhận. Bà Th đưa cho tôi 1.000.000 đồng tiền hoa hồng; tổng số tiền tôi đưa cho bà Th là 35.300.000 đồng.

Dây hụi này đã kết thúc vào ngày 25/2/2022. Số tiền mà bà Th còn phải đóng hụi là 40.000.000 đồng cho 02 phần hụi.

- Dây hụi thứ 5: hụi 5.000.000 đồng, hụi có lãi, dây hụi bắt đầu từ ngày 25/11/2020 (âm lịch); các bên tham gia hụi thỏa thuận hoa hồng đối với chủ hụi là 2.00.000 đồng. Dây hụi gồm 22 hụi viên, bà Th tham gia 02 phần hụi; bà Th đã góp được 06 kỳ hụi x 2 phần hụi là 12 kỳ hụi, còn 16 kỳ hụi x 02 phần là 32 kỳ hụi chưa góp.

Bà Th lãnh hụi 02 lần của 02 phần hụi, cụ thể:

+ Phần hụi thứ nhất: bà Th lãnh ngày 25/11/2020 (âm lịch); bà Th đưa ra số tiền lãi là 800.000 đồng, tôi đã đưa cho bà Th 88.200.000 đồng, sau đó bà Th đưa cho tôi 2.000.000 đồng tiền hoa hồng, tổng cộng số tiền tôi đưa bà Th là 86.200.000 đồng.

+ Phần hụi thứ hai: bà Th lãnh ngày 25/01/2021 (âm lịch); bà Th đưa ra số tiền lãi là 800.000 đồng, tôi đã đưa cho bà Th 89.800.000 đồng, sau đó bà Th đưa cho tôi 2.000.000 đồng tiền hoa hồng, tổng cộng số tiền tôi đưa bà Th là 87.800.000 đồng.

Dây hụi này chưa kết thúc, đến tháng 8/2022 dây hụi mới kết thúc, Dây hụi này bà Th hiện đang không đóng lại hụi. Số tiền mà bà phải góp lại là 16 kỳ x 02 phần = 32 kỳ hụi x 5.000.000 đồng = 160.000.000 đồng.

Khi xảy ra tranh chấp thì tôi và bà Th đã hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã Kiến An, bà Th thừa nhận là có nợ tiền hụi của tôi. Bà có hứa là sẽ trả cho tôi, tuy nhiên, bà Th không thực hiện lời hứa.

Nay tôi yêu cầu bà Th trả cho tôi 290.000.000 đồng tiền hụi phải góp và 4.000.000 đồng còn thiếu nợ hụi trước đó. Tổng cộng số tiền mà tôi yêu cầu bà Th trả là 294.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.

- Bị đơn bà Lê Thị Th, trình bày, giữa bà và ông X đã có thời gian chơi hụi hơn 10 năm nay, tôi có tham gia chơi hụi do ông X làm chủ hụi.

Tính từ năm 2019 đến nay, tôi có tham gia chơi 05 dây hụi do ông X làm chủ hụi. Dây hụi thứ nhất, hụi 5.000.000 đồng, dây hụi ngày 06/3/2020; dây hụi thứ 2, hụi 5.000.000 đồng, dây hụi ngày 10/10/2019; dây hụi thứ 3, dây hụi 5.000.000 đồng, dây hụi ngày 15/4/2020; dây hụi thứ 4, hụi 2.000.000 đồng, dây hụi ngày 20/5/2020; dây hụi thứ 5, hụi 5.000.000 đồng, ngày 25/11/2020. Bà Th thừa nhận có chơi 05 dây hụi này, còn nợ ông X số tiền là tiền 290.000.000 đồng, nhưng không có khả năng trả ngay, nên đề nghị trả hàng tháng, do bà đang đau ốm nên không trả một lúc được.

Tại phiên tòa:

- Ông Nguyễn Văn X trình bày ý kiến, yêu cầu như đã cung cấp trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và xác định không có tài liệu, chứng cứ khác giao nộp cho Tòa án chứng minh cho ý kiến, yêu cầu của mình; xác định dây hụi 5.000.000đồng ngày 25/11/2020, bà Th tham gia 02 phần hụi, còn 02 phần hụi nữa sẽ dứt hụi, nên ông X tự nguyện rút lại yêu cầu khởi với số tiền 20.000.000đồng, riêng số tiền 4.000.000đồng do bà Th không thừa nhận, nên ông X tự nguyện rút lại yêu cầu khởi kiện với tổng số tiền 24.000.000đồng.

- Bà Lê Thị Th xác định các tài liệu chứng cứ đã giao nộp là đúng, không có tài liệu chứng cứ khác giao nộp cho Tòa án, cũng như không có yêu cầu khác để chứng minh cho quyền, nghĩa vụ của mình, tại phiên tòa bà Th thừa nhận đến nay còn nợ ông X số tiền hụi như ông X đã trình bày, nhưng không thừa nhận số tiền vay thêm là 4.000.000đồng.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn, đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71 và 234 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Ông Nguyễn Văn X có làm chủ nhiều dây hụi, bà Lê Thị Th là hụi viên có tham gia nhiều dây hụi, đã hốt xong, còn nợ hụi chết tổng cộng 294.000.000 đồng gồm dây hụi 5.000.000 đồng/tháng ngày 06/3/2020, nợ 35.000.000 đồng; dây hụi 5.000.000 đồng/tháng ngày 10/10/2019, nợ 15.000.000 đồng; dây hụi 5.000.000 đồng/tháng ngày 15/4/2020, nợ 40.000.000 đồng; dây dụi 2.000.000 đồng/tháng ngày 20/5/2020, nợ 40.000.000 đồng; dây hụi 5.000.000 đồng/tháng ngày 25/11/2020, nợ 160.000.000 đồng và nợ hụi cũ 4.000.000 đồng. Nay, ông X yêu cầu bà Th trả 290.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi suất. Rút lại yêu cầu khởi kiện đối với số tiền 4.000.000 đồng.

Phía bà Th thừa nhận từ năm 2019 đến nay, có tham gia 05 dây hụi nêu trên, đã hốt hụi và còn nợ lại hụi chết 290.000.000 đồng, do hoàn cảnh khó khăn xin trả dần hàng tháng và yêu cầu xét xử vắng mặt.

Xét thấy, căn cứ ông X khởi kiện là các giấy hụi trong đó ông X là chủ hụi, bà Th là hụi viên với tên “Vợ Dũng” nên có cơ sở xác định hai bên có giao kết hợp đồng góp hụi. Quá trình giao kết hợp đồng, bà Th đã bỏ hụi hốt 05 dây hụi nhưng vi phạm nghĩa vụ góp hụi theo định kỳ nên ông X khởi kiện yêu cầu bà Th trả 290.000.000 đồng là có căn cứ phù hợp Điều 471 Bộ luật Dân sự.

Tuy nhiên, tại phiên tòa ông X xác định dây hụi 5.000.000 đồng ngày 25/11/2020, bà Th tham gia 02 phần và còn 02 lần hụi nữa sẽ chấm dứt nên ông X tự nguyện rút lại 20.000.000 đồng và sẽ khởi kiện sau khi hụi chấm dứt. Riêng, số tiền 4.000.000 đồng do bà Th không thừa nhận nên ông X đã tự nguyện rút lại yêu cầu khởi kiện nên cần đình chỉ với tổng số tiền 24.000.000 đồng theo Điều 217, 244 Bộ luật Tố tụng dân sự. Riêng, bà Th có yêu cầu xin trả dần hàng tháng do điều kiện khó khăn nhưng không được ông X đồng ý nên không xem xét, đề nghị:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn X.

- Buộc bà Lê Thị Th trả ông Nguyễn Văn X 270.000.000 đồng.

- Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn X đối với số tiền 24.000.000 đồng.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại các Điều 471 Bộ luật Dân sự; Điều 217, 244 Bộ luật Tố tụng dân sự, xem xét, quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Ông Nguyễn Văn X và bà Lê Thị Th hiện đang cư trú trên địa bàn huyện Chợ Mới, giữa ông X, bà Th có quan hệ góp hụi, nên Hội đồng xét xử thống nhất quan hệ tranh chấp để giải quyết vụ án là “tranh chấp về Hợp đồng góp hụi” theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự, nên thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới.

[2] Về nội dung: giữa ông Nguyễn Văn X và bà Lê Thị Th có quan hệ góp hụi (họ) theo đó ông X là chủ hụi, bà Th là hụi viên, từ năm 2019 bà Th đã tham gia 05 dây hụi, mỗi dây 5.000.000đồng, tại các ngày 10/10/2019, 06/3/2020, 15/4/2020, 25/11/2020, riêng dây hụi ngày 20/5/2020 là 2.000.000 đồng. Bà Th đã thực hiện chầu hụi, cũng như đã thực hiện hốt hụi tại các dây hụi này, tại sổ hụi thể hiện tên hụi viên của bà là “Vợ Dũng”, nên các tài liệu là sổ hụi do ông X cung cấp là phù hợp với lời khai của ông X và bà Th thừa nhận việc có chơi hụi, góp hụi, hốt hụi (lĩnh hụi), như ông X đã trình bày; nên đây là tài liệu, chứng cứ không cần chứng minh theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Xét thấy, giữa ông X, bà Th có quan hệ là chủ hụi (họ) và hụi viên, với tư cách là hụi viên bà Th đã hốt hụi, nhưng đến nay không thực hiện nghĩa vụ thanh toán hụi chết cho ông X, mặc dù trong các dây hụi này có các dây hụi đến nay chưa mảng, nhưng giữa ông X, bà Th đều thống nhất số tiền nợ hụi mà bà Th đến nay còn chưa thanh toán cho ông X với số tiền là 290.000.000đồng, nhưng tại phiên tòa ông X xác định tại dây hụi 5.000.000đồng, ngày 25/11/2020, bà Th có tham gia 02 phần hụi, và còn 02 tháng nữa hụi mới dứt, nên ông tự nguyện rút yêu cầu khởi kiện với số tiền là 20.000.000đồng, mặc dù bà Th thừa nhận tiền nợ hụi của ông X. Tuy nhiên, việc ông X rút yêu cầu khởi kiện là không vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu theo quy định tại Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự, nên Hội đồng xét xử thống nhất đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông X với số tiền 20.000.000đồng.

Việc cả ông X, bà Th đều thống nhất về phương thức chơi hụi, thời gian đóng hụi, hốt hụi, chầu hụi và số tiền nợ hụi theo tài liệu, chứng cứ mà ông X đã cung cấp; bà Th thừa nhận số tiền còn nợ hụi của ông X, nên đến nay việc bà Th thừa nhận không còn khả năng đóng hụi, coi như đã rút khỏi thành viên tham gia hụi, và phải thực hiện nghĩa vụ của hụi viên theo quy định tại Điều 10, 15 Nghị định số 19/20219/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ; nên bà Th phải nghĩa vụ thanh toán lại số tiền này cho ông X, mặc dù bà Th có yêu cầu trả dần hàng tháng, nhưng ông X không đồng ý. Dó đó, Hội đồng xét xử thống nhất, việc ông X khởi kiện là có căn cứ, bà Th cũng thừa nhận số tiền còn nợ hụi của ông X, nhưng do không có khả năng trả một lần, đề nghị trả dần, do ông X không đồng ý, nên bà Th phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền 270.000.000đồng cho ông X, theo quy định pháp luật.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Đi với số tiền 4.000.000đồng, ông X cho rằng đây là số tiền do bà Th còn nợ tiền hụi cũ, nhưng chưa trả, bà Th không công nhận số nợ này; tại phiên tòa ông X đề nghị rút yêu cầu khởi kiện đối với số tiền này. Việc rút yêu cầu khởi kiện của ông X là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật, nên Hội đồng xét xử thống nhất đình chỉ yêu cầu khởi kiện theo quy định tại các Điều 217, 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2.4] Về án dân sự sơ thẩm:

- Do yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn X được chấp nhận, nên ông X được hoàn lại tiền tạm ứng án phí đã nộp.

- Bà Lê Thị Th phải chịu án phí tương ứng với số tiền 270.000.000đồng, theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 357, 471 Bộ luật Dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 144, 147, 271, 273 và Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Căn cứ Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2020 về hụi, họ, điêu, phường của Chính phủ.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn ông Nguyễn Văn X đối với bị đơn bà Lê Thị Th;

- Buộc bà Lê Thị Th phải trả ông Nguyễn Văn X số tiền 270.000.000đồng (hai trăm bảy mươi triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn X đối với số tiền 24.000.000đồng (hai mươi bốn triệu đồng).

3. Về án phí sơ thẩm:

- Ông Nguyễn Văn X được nhận lại số tiền 7.350.000đồng (bảy triệu, ba trăm năm mươi nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án, lệ phí Tòa án số 0004682 ngày 27 tháng 5 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới cấp.

- Bà Lê Thị Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm với số tiền 13.500.000đồng (mười ba triệu, năm trăm nghìn đồng), bà Th phải có nghĩa vụ nộp án phí tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

4. Về quyền kháng cáo:

- Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, ông Nguyễn Văn X, bà Lê Thị Th có mặt, có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án dân sự, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 54/2022/DS-ST

Số hiệu:54/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;