TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ KT - TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 46/2021/DS-ST NGÀY 05/11/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI
Trong các ngày 19 tháng 10 và ngày 05 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã KT, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 42/2021/TLST-DS, ngày 04 tháng 5 năm 2021 về việc tranh chấp hợp đồng góp hụi theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 67/2021/QĐXX-ST ngày 06/9/2021, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc G, sinh năm 1973. (có mặt) Địa chỉ: Số 04, ấp SĐ, xã T.H, thị xã KT, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn Kh, sinh năm 1987. Địa chỉ: Ấp GD, xã BH, thị xã KT, Long An. (có đơn đề nghị vắng mặt).
2. Bị đơn:
- Ông Đào Văn B, sinh năm 1955. (có mặt) - Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1958. (có mặt) Cùng địa chỉ: Ấp BC 2, xã T.TH, thị xã KT, tỉnh Long An.
3. Người làm chứng:
- Bà Nguyễn Thị Ánh M, sinh năm 1979. (có mặt).
Địa chỉ: Ấp BV, xã T.H, thị xã KT, tỉnh Long An - Ông Trần Minh Q, sinh năm 1985 (có mặt).
Địa chỉ: Ấp BV, xã T.H, thị xã KT, tỉnh Long An.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện và phần trình bày của nguyên đơn, của đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa như sau: Bà Nguyễn Thị Ngọc G yêu cầu ông Đào Văn B và bà Nguyễn Thị Đ liên đới trả số tiền nợ hụi 113.500.000 đồng.
Về căn cứ khởi kiện: Ông B và bà Đ là vợ chồng có tham gia 06 dây hụi do bà G làm chủ, đã hốt hụi nhưng không tiếp tục đóng hụi cho bà G, cụ thể:
1. Dây hụi tháng mở ngày 10/9/2020, tổng 12 phần, 2.000.000 đồng/phần, bị đơn tham gia 02 phần, đã hốt hụi ngày 10/10/2020 và ngày 10/11/2020. Sau đó đã đóng đến hết tháng 12/2020, tháng 01/2021 đóng được 500.000 đồng. Tiền hụi tháng 01/2021 thiếu 3.500.000 đồng, tiền hụi các kỳ từ tháng 02/2021 đến mãn hụi (tháng 8/2021) chưa đóng. Bbà G yêu cầu số tiền hụi thiếu là 27.500.000 đồng.
2. Dây hụi tháng mở ngày 10/9/2020, 12 phần, 5.000.000 đồng/phần, bị đơn tham gia 01 phần, đã hốt hụi ngày 10/01/2021, sau khi hốt hụi thì không đóng. Yêu cầu tiền hụi thiếu của các kỳ từ tháng 02/2021 đến mãn hụi tháng 8/2021 là 30.000.000 đồng.
3. Dây hụi tháng mở ngày 15/11/2020, 12 phần, 2.000.000 đồng/phần, bị đơn tham gia 01 phần, đã hốt hụi ngày 15/12/2020, sau khi hốt hụi đóng đến tháng 01/2021. Tiền hụi thiếu từ tháng 02/2021 đến mãn hụi tháng 10/2021 là 09 kỳ thành tiền 18.000.000 đồng.
4. Dây hụi tháng mở ngày 20/7/2020, 12 phần, 2.000.000 đồng/phần, bị đơn tham gia 02 phần, đã hốt hụi ngày 20/8/2020 và ngày 20/10/2020. Đã đóng hụi đến hết tháng 01/2021. Tiền hụi thiếu từ tháng 02/2021 đến mãn hụi tháng 6/20201 là 20.000.000 đồng.
5. Dây hụi tháng mở ngày 01/6/2020, 12 phần, 2.000.000 đồng/phần, bị đơn tham gia 02 phần, đã hốt hụi ngày 01/7/2020 và ngày 01/8/2020. Sau đó đã đóng hụi đến tháng 01/2021. Tiền hụi thiếu từ tháng 02/2021 đến mãn hụi tháng 5/2021 là 04 kỳ là 12.000.000 đồng.
6. Dây hụi tháng mở ngày 01/6/2020, 12 phần, 1.000.000 đồng/phần, bị đơn tham gia 02 phần, đã hốt hụi ngày 01/9/2020 và ngày 12/9/2020. Sau đó đóng đến hết tháng 01/2021, tiền hụi thiếu từ tháng 02/2021 đến khi mãn tháng 5/2020 là 6.000.000 đồng.
Trong các dây hụi trên có một số dây hụi bị đơn thiếu số tiền lớn hơn tiền mà bà G yêu cầu, nhưng do đơn khởi kiện tính nhầm nên chỉ yêu cầu theo đơn tổng là 113.500.000 đồng.
Khi tổ chức các dây hụi thì bà G có lập giấy giao kèo hụi để theo dõi, tên của bị đơn trong danh sách hụi là “Bánh”.
Bà G giao tiền hụi tại nhà vợ chồng ông B, bà Đ. Khi giao tiền do tin tưởng nên không lập thành văn bản và không có ai chứng kiến nhưng có hụi viên bà Nguyễn Thị Ánh M và ông Đen (tên Trần Minh Q) biết việc bà Đ hốt hụi vì những người này có tham gia các dây hụi trên.
Bị đơn bà Nguyễn Thị Đ trình bày không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cụ thể: Bà có tham gia các dây hụi do bà G làm chủ, tiền đóng hụi là tiền chung của vợ chồng bà với ông B. Tên trong danh sách hụi là “Bánh” theo tên chồng, bà chưa lãnh hụi, bà G cũng chưa giao tiền hụi cho bà, do bà G bị vỡ hụi nên bà ngưng đóng từ tháng 12/2020 âm lịch đến nay, cụ thể:
1. Dây hụi tháng mở ngày 10/9/2020, có 12 phần, 2.000.000 đồng/phần, bà tham gia 02 phần, đã đóng được 04 kỳ từ khi mở hụi thì ngưng không đóng tiếp, dây hụi này bà chưa lãnh hụi.
2. Dây hụi tháng mở ngày 10/9/2020, 12 phần, 5.000.000 đồng/phần, bà tham gia 01 phần, vào tháng 01/2021 lẽ ra ông Đen (Trần Minh Q) được lãnh hụi nhưng bà có nói với ông Quang cho bà được hốt nhưng bà G chưa giao tiền cho bà.
3. Dây hụi tháng mở ngày 15/11/2020, 12 phần, 2.000.000 đồng/phần, bà tham gia 01 phần. Bà đã đóng được 03 kỳ thì ngưng, dây hụi này bà chưa hốt hụi, bà G chưa giao hụi cho bà.
4. Dây hụi tháng mở ngày 20/7/2020, 12 phần, 2.000.000 đồng/phần, bà tham gia 02 phần, đã đóng được 04 kỳ thì ngưng, đến nay chưa lãnh hụi, bà G chưa giao hụi cho bà và cũng không giao giấy hụi cho bà.
5. Dây hụi tháng mở ngày 01/6/2020, 12 phần, 2.000.000 đồng/phần, bà tham gia 02 phần, đã đóng được 09 kỳ thì ngưng, đến nay chưa hốt hụi, bà G chưa giao giấy giao kèo hụi cho bà.
6. Dây hụi tháng mở ngày 01/6/2020, 12 phần, 1.000.000 đồng/phần, bà tham gia 02 phần, đã đóng được 09 kỳ thì ngưng, đến nay chưa hốt hụi.
Bị đơn, ông Đào Văn B trình bày tại phiên tòa không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà G, cụ thể: Ông và bà Đ là vợ chồng, bà Đ có tham gia các dây hụi do bà G tổ chức và lấy tiền của ông để đóng hụi. Bà G chưa giao tiền hụi cho bà Đ nên không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà G.
Người làm chứng bà Nguyễn Thị Ánh M trình bày: Bà có tham gia nhiều dây hụi do bà G tổ chức, trong đó có các dây hụi mở vào ngày: 10/9/2020, hụi 2.000.000 đồng/phần; Hụi mở ngày 10/9/2020, 5.000.000 đồng/phần; Hụi mở ngày 15/11/2020, 2.000.000 đồng/phần; Hụi mở ngày 20/7/2020, hụi 2.000.000 đồng/phần; Hụi ngày 01/6/2020, 1.000.000 đồng/phần và hụi mở ngày 01/6/2020, 2.000.000 đồng/phần. Bà Đ có tham gia 06 dây hụi nêu trên, hàng tháng bà và bà Đ đến nhà bà G bỏ hụi, khi bỏ hụi thì bà biết bà Đ đã hốt hụi trong 06 dây hụi trên, tuy nhiên việc giao tiền là giữa chủ hụi với hụi viên, bà không chứng kiến việc giao nhận tiền hụi giữa các bên.
Người làm chứng ông Trần Minh Q trình bày: Tên thường gọi của ông là Đen, ông có tham gia nhiều dây hụi do bà G tổ chức. Trong các dây hụi mà bà G đang khởi kiện thì ông tham gia dây mở ngày 10/9/2020, hụi 5.000.000 đồng/phần. Bà Đ cũng tham gia dây hụi này, ông được hốt hụi (không nhớ rõ thời gian) nhưng bà Đ gọi điện cho ông nói để bà Đ hốt hụi rồi tháng sau tới ông, cụ thể nói chị Giàu giao hụi cho bác rồi tháng sau tới con hốt hết, theo ông hiểu là bà Đ hốt tiền hụi kỳ đó và đã nhận tiền. Còn ông không chứng kiến việc bà G giao tiền hụi cho bà Đ.
Ngoài ra ông tham gia dây hụi mở ngày 01/6/2020 nhưng không nhớ bà Đ có tham gia hay không.
Đại diện viện kiểm sát phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Từ khi vụ án được thụ lý đến trước khi xét xử Thẩm phán, thư ký thực hiện đúng trình tự quy định. Tại phiên tòa, người tiến hành tố tụng thực hiện đúng quy định Bộ luật Tố tụng dân sự. Người tham gia tố tụng thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định. Tòa án xác định quan hệ tranh chấp là đúng quy định.
Về nội dung: Bà G khởi kiện yêu cầu bà Đ, ông B trả 113.500.000 đồng tiền hụi, bà G cho rằng đã giao tiền hụi cho bị đơn nhưng không lập văn bản giao tiền, nay bị đơn không thừa nhận đã nhận tiền hụi.
Xét thấy, tại dây hụi mở ngày 10/9/2020, hụi 5.000.000 đồng/phần người làm chứng ông Quang khai tới kỳ lãnh hụi lẽ ra ông Quang là người được lãnh nhưng bà Đ đã gọi cho ông (bằng số điện thoại của bà G) thông báo về việc bà Đ hốt hụi kỳ đó, cụ thể nói “Chị Giàu giao hụi cho bác rồi tháng sau tới con hốt hết”, người làm chứng bà Minh cũng khai có biết bà Đ đã hốt hụi trong dây hụi trên. Như vậy có căn cứ xác định bà Đ đã lãnh hụi nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà G đối trong dây hụi mở ngày 10/9/2020, hụi 5.000.000 đồng/phần.
Đối với các dây hụi còn lại bà G không chứng minh được đã giao tiền hụi cho bị đơn nên không có căn cứ chấp nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định như sau:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Nguyễn Thị Ngọc G khởi kiện yêu cầu ông Đào Văn B, bà Nguyễn Thị Đ liên đới trả tiền nợ hụi. Bị đơn cư trú tại xã T.TH, thị xã KT nên căn cứ Điều 26; Khoản 1 Điều 35; Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì đây là tranh chấp hợp đồng góp hụi, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã KT.
[2] Về hòa giải: Bị đơn ông Đào Văn B và bà Nguyễn Thị Đ đã được cấp, tống đạt văn bản tố tụng theo Điều 173 Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nên vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được mà chỉ tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và có thông báo kết quả cho đương sự theo Điều 207, Điều 210 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về nội dung vụ án:
[3.1] Nội dung thống nhất: Nguyên đơn bà G, bị đơn bà Đ thống nhất về việc bà Đ có tham gia 06 dây hụi do bà G tổ chức, mở vào các ngày 10/9/2020 (02 dây), ngày 15/11/2020, ngày 20/7/2020, ngày 01/6/2020 (02 dây).
[3.2] Nội dung không thống nhất: Nguyên đơn cho rằng bị đơn bà Đ đã lãnh hụi trong 06 dây hụi trên sau đó không tiếp tục đóng các kỳ hụi còn thiếu nên yêu cầu trả số tiền 113.500.000 đồng. Ngược lại bị đơn bà Đ, ông B cho rằng chưa lãnh hụi, bà G chưa giao tiền trong các dây hụi trên nên không đồng ý với yêu cầu khởi kiện.
Do bị đơn không thừa nhận đã lãnh tiền hụi trong các dây hụi mà nguyên đơn đang yêu cầu, nguyên đơn trình bày khi giao tiền hụi không lập biên bản giao tiền. Nguyên đơn cung cấp người làm chứng là bà Nguyễn Thị Ánh M và ông Trần Minh Q (tên thường gọi Đen) ngoài ra không có tài liệu, chứng cứ gì khác chứng minh về việc đã giao tiền hụi cho bị đơn.
Căn cứ lời khai của người làm chứng tại phiên tòa đều khẳng định không chứng kiến việc bà G giao tiền hụi cho bà Đ, ông B. Ông Quang trình bày dây hụi mở ngày 10/9/2020, hụi 5.000.000 đồng/phần bà Đ có điện thoại thông báo cho ông biết về việc bà Đ hốt hụi, tuy nhiên cũng không chứng kiến việc giao tiền hụi nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cũng như ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát.
Từ đó không có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà G buộc bị đơn bà Đ, ông B trả 113.500.000 đồng tiền hụi.
[4] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 147, 207, 210, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Áp dụng Điều 471 Bộ luật Dân sự.
Áp dụng Nghị định số 19/2019/NĐ-CP của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường.
Áp dụng Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Ngọc G về việc tranh chấp hợp đồng góp hụi với ông Đào Văn B và bà Nguyễn Thị Đ yêu cầu trả số tiền hụi 113.500.000 đồng.
2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Ngọc G phải nộp 5.675.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Bà G được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 2.837.500 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0009644 ngày 26/4/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã KT. Bà Nguyễn Thị Ngọc G còn phải tiếp tục nộp 2.837.500 đồng án phí.
3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được cấp, tống đạt bản án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 46/2021/DS-ST
Số hiệu: | 46/2021/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị Xã Kiến Tường - Long An |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 05/11/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về