Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 32/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH A, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 32/2021/DS-ST NGÀY 18/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Ngày 18 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Châu Thành A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 113/2020/TLST-DS ngày 07 tháng 10 năm 2020 về việc tranh chấp hợp đồng góp hụi theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 93/2021/QĐXXST-DS ngày 04 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Huỳnh Bích V – Có mặt Hộ khẩu thường trú: Ấp QH, xã T, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Nơi ở hiện nay: Ấp A, xã T, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T, bà Lê Thị N Ông T ủy quyền cho bà N, bà N – Có mặt Địa chỉ: Ấp A, xã T, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang. (Theo Văn bản ủy quyền ngày 22/10/2020)

3. Những người làm chứng: Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1954; Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1968; Ông Lê Văn Đ, sinh năm 1982; Bà Trần Thị Kim V, sinh năm 1975; Ông Lê Văn L, sinh năm 1952; Bà Trần Thị H, sinh năm 1950; Bà Lê Thị H, sinh năm 1948; Bà Lê Thị U, sinh năm 1965; Ông Nguyễn Văn X, sinh năm 1986.

- Tất cả vắng mặt Cùng địa chỉ: Ấp A, xã T, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang. Ông Võ Văn H – Có mặt Địa chỉ: Ấp A, xã T, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình tố tụng tại Tòa án nguyên đơn Huỳnh Bích V trình bày: Ngày 10/02/2016, bà có tham gia dây hụi mùa mệnh giá 10.000.0000đồng do ông Nguyễn Văn T, bà Lê Thị N làm chủ, mỗi năm khui 4 lần, có 20 thành viên, bà tham gia 01 phần. Hình thức khui hụi ai bỏ thăm cao sẽ được hốt hụi, thời gian giao hụi là 30 ngày kể từ ngày kêu thăm. Bà V cho rằng bà đóng được 18 lần, cụ thể như sau:

Lần thứ 01 bà đóng 6.800.000đồng; Lần thứ 02 bà đóng 6.300.000đồng; Lần thứ 03 bà đóng 6.300.000đồng; Lần thứ 04 bà đóng 6.500.000đồng; Lần thứ 05 bà đóng 6.500.000đồng; Lần thứ 06 bà đóng 6.500.000đồng; Lần thứ 07 bà đóng 7.000.000đồng; Lần thứ 08 bà đóng 7.400.000đồng; Lần thứ 09 bà đóng 8.000.000đồng; Lần thứ 10 bà đóng 8.000.000đồng, lần thứ 11 bà đóng 8.000.000đồng, lần thứ 12 bà đóng 8.000.000đồng, lần thứ 13 bà đóng 8.000.000đồng, lần thứ 14 do ông T không cho bà hốt nên bà không đi khui nhưng bà vẫn đóng 8.000.000 đồng; Các lần thứ 15,16,17,18 bà không đi khui hụi nhưng bà vẫn đóng mỗi lần 8.000.000 đồng.

Đến tháng 5/2020 ông T, bà N cho rằng hụi mở ngày 10/02/2017, không phải mở ngày 10/02/2016 như giấy hụi đã giao cho các thành viên nên giữa bà và phía ông T, bà N phát sinh mâu thuẫn, bà dừng việc chơi hụi và khởi kiện ông T, bà N. Nay bà yêu cầu ông Nguyễn Văn T, bà Lê Thị N phải giao trả cho bà số tiền hụi đến khi mãn hụi là 175.000.000đồng (đã trả đầu thảo 5.000.000đồng).

Quá trình tố tụng bị đơn ông Nguyễn Văn T, bà Lê Thị N, ông T ủy quyền cho bà N trình bày: Bà N thống nhất với phần trình bày của bà Huỳnh Bích V về số hụi viên tham gia là 20 phần, thời gian khui hụi mỗi năm khui 04 lần, không thống nhất lời trình bày của bà V về ngày tháng năm mở hụi, mở hụi ngày 10/02/2017 âm lịch. Do trong quá trình đánh máy danh sách ghi nhầm “2017” thành “2016”. Bà N, ông T đã thông báo cho các hụi viên biêt.

Tính đến nay, bà V chỉ đóng 14 lần hụi sống. Nay bà và ông T không đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà V, yêu cầu bà và ông T phải giao trả số tiền hụi đến khi mãn là 175.000.000đồng. Vì hiện tại dây hụi trên đến tháng 10/2021(âm lịch) mới mãn hụi, các hụi viên vẫn đóng hụi cho bà và ông T đầy đủ, trừ bà V không đóng hụi. Bà N đồng ý giao trả lại phần hụi sống cho bà V đã góp 14 lần đến khi kết thúc dây hụi, tức khoảng tháng 11/2021 âm lịch.

Tại phiên tòa, bà Huỳnh Bích V cho rằng hụi đã kết thúc từ tháng 10/2020 âm lịch, chỉ còn bà chưa hốt, nên bà giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Tại phiên Tòa, bà Lê Thị N không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chỉ đồng ý trả tiền 14 lần hụi sống bà V đóng tương tương số tiền 102.800.000 đồng và sẽ giao khi kết thúc dây hụi, tức 10/2021 âm lịch (Tháng 11/2021 âm lịch mới giao hụi), hình thức trả tiền hụi theo quý như bà V đã đóng hụi sống cho bà. Bà N không tràn hụi cho bà V nên bà không có yêu cầu đối với bà V.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là tuân thủ đúng trình tự, thủ tục tố tụng. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định pháp luật. Đối với những người làm chứng vắng mặt nhưng xét thấy lời khai của họ đã thể hiện rõ nên đề nghị Hội đồng xét xử vắng mặt là phù hợp. Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Về án phí dân sự nguyên đơn phải chịu theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết:

Theo đơn khởi kiện ngày 14/9/2020, nguyên đơn bà Huỳnh Bích V yêu cầu bị đơn Nguyễn Văn T phải giao trả cho nguyên đơn số tiền hụi là 175.000.000đồng. Đến ngày 18/3/2021, nguyên đơn khởi kiện bổ sung thêm bị đơn là bà Lê Thị N, nội dung khởi kiện không thay đổi. Việc bà V khởi kiện, phía bị đơn không đồng ý nên phát sinh tranh chấp. Xét đây là quan hệ pháp luật “Tranh chấp hợp đồng góp hụi” quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Bị đơn có nơi cư trú tại huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang nên theo quy định tại Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang.

[2] Xét về thủ tục tố tụng:

[2.1] Đối với những người làm chứng ông Nguyễn Văn K, bà Nguyễn Thị L, ông Lê Văn Đ, bà Trần Thị Kim V, ông Lê Văn L, bà Trần Thị H, bà Lê Thị H, bà Lê Thị Ut, ông Nguyễn Văn X vắng mặt tại phiên tòa nhưng có yêu cầu vắng mặt. Xét thấy đã có lời khai rõ ràng nên căn cứ vào Điều 229 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt là có căn cứ pháp luật.

[2.2] Đối với yêu cầu khởi kiện bổ sung của nguyên đơn: Xét thấy vụ án chưa công bố chứng cứ và hòa giải nên yêu cầu khởi kiện bổ sung của nguyên đơn là đúng quy định.

[3] Về nội dung vụ án: Giữa bà Huỳnh Bích V và ông Nguyễn Văn T, bà Lê Thị N có thỏa thuận hợp đồng góp hụi, nội dung thỏa thuận ông Nguyễn Văn T, bà Lê Thị N làm chủ hụi có trách nhiệm thu các phần hụi do hụi viên đóng và giao các phần hụi đó cho hụi viên được hốt cho tới khi kết thúc hụi. Kỳ khui hụi mỗi năm khui 04 lần, người nào bỏ thăm cao nhất sẽ được hốt hụi. Nay bà Vcho rằng dây hụi đã mãn nhưng ông T, bà N không giao tiền hụi cho bà nên khởi kiện bà N, ông T.

Hội đồng xét xử xét thấy: Việc bà Huỳnh Bích Vân tham gia chơi hụi được ông Nguyễn Văn T, bà Lê Thị N là chủ hụi thừa nhận. Nên xác lập quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Việc bà V cho rằng dây hụi mở ngày 10/02/2016 (âm lịch) được bà và các hụi viên tham gia, bà đã đóng đầu đủ (18lần) các lần kêu hụi sống (14 lần có ông T ký nhận, 04 lần ông Th không ký nhận). Phía bị đơn cho rằng dây hụi mở ngày 10/02/2017 (âm lịch), không phải ngày 10/02/2016 âm lich, việc nhằm năm “2017” thành “2016” là do trong quá trính đánh máy có sai sót, bà đã thông báo cho các hụi viên biết. Tính đến nay bà V chỉ đóng được 14 lần hụi sống. Nhận thấy, việc bà V cho rằng bà đóng hụi sống được 18 lần. Qua xem xét chứng cứ bà V cung cấp, chứng cứ này không đủ cơ sở chứng minh bà đóng đủ 18 lần hụi sống nên Hội đồng xét xử chỉ chấp nhận bà V đóng 14 lần hụi sống cho chủ hụi.

Mặt khác, qua quá trình làm việc và lấy khai các thành viên tham gia hụi cụ thể gồm: Ông Nguyễn Văn K, bà Nguyễn Thị L, ông Lê Văn Đ, bà Trần Thị Kim V, ông Lê Văn L, bà Trần Thị H, bà Lê Thị H, bà Lê Thị U, ông Nguyễn Văn X: Các thành viên đều xác nhận dây hụi hai bên đang tranh chấp, các thành viên vẫn đang đóng hụi và khui hụi bình thường, các thành viên đều xác nhận dây hụi đến tháng 10/2021(âm lịch) mới mãn hụi. Lời khai của những người làm chứng trong các dây hụi là khách quan, phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ nên chấp nhận.

Đối với lời khai ông Võ Văn H: Ông H cho rằng ông là người kêu và hốt hụi lần đầu tiền khi mở hụi, ông tham gia hụi thông qua mẹ vợ ông là Trần Thị H (ghi tên chơi hụi 2 B), các lần khui hụi và đóng hụi đều do ông đưa tiền cho bà H đóng, ông không trực tiếp đóng hụi cũng như nhận tiền hụi từ chủ hụi, ông cũng không xác định được hụi mãn hay chưa mà phải đối chiếu với giấy hụi gốc của chủ hụi. Tại thời điểm lấy khai ông Võ Văn H ngày 24/02/2021 và ngày 26/3/2021, ông H xác nhận đã đóng hụi chết đến ngày 20/12/2020 (âm lịch).

Xét thấy, lời khai của ông H không có cơ sở để chấp nhận. Bởi lẽ, việc ông H tham gia chơi hụi không được phía chủ hụi bà N, ông T chấp nhận, đối chiếu với thành viên tham gia chơi hụi thì không ghi tên ông H.

Ông H cho rằng mở hụi ngày 10/02/2016 âm lịch thì tính đến tháng 10/2020 âm lịch sẽ kết thúc nhưng ông H vẫn gửi tiền đóng hụi cho bà H đến ngày 20/12/2020 âm lịch.

Việc ông H cho rằng, ông nhận tiền hốt hụi từ mẹ ông (bà H) năm 2016 nhưng ông không có chứng cứ chứng minh. Vì bà N cho rằng khi giao tiền hốt hụi không có giấy tờ.

Đối với “Tờ cam kết chơi hụi mùa”, 10.000.000 đồng, ngày 10/02/2016 (dòng trên), chủ hụi Nguyễn Văn T, Trường Phước A, ngày 10/02/2017 (dòng dưới). Xét thấy có sự mâu thuẫn về năm mở hụi. Tuy nhiên, khi Tòa án tiến hành lấy khai những thành viên tham gia hụi vào ngày 27/01/2021, các hụi viên đều xác nhận dây hụi nêu trên vẫn còn đang hoạt động, chưa kết thúc. Điều này, chứng tỏ dây hụi mùa 10.000.000 đồng, mở ngày 10/02/2017 âm lịch là phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Từ những phân tích nêu trên, xét thấy dây hụi mùa 10.000.000 đồng chưa kết thúc, phía bị đơn (chủ hụi) không vi phạm nghĩa vụ về hụi nên yêu cầu của nguyên đơn bà Huỳnh Bích V không có cở sở để chấp nhận. Tuy nhiên, dành quyền khởi kiện cho nguyên đơn khi dây hụi kết thúc mà phía bị đơn và nguyên đơn không thỏa thuận được.

Tại phiên Tòa, bà Lê Thị N cho rằng không tràn hụi cho bà Huỳnh Bích Vân nên không yêu cầu giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu bà Huỳnh Bích V không được chấp nhận nên bà V phải chịu án phí có giá ngạch theo quy định Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Cụ thể: 175.000.000 đồng x 5% = 8.750.000đồng.

[5] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều Điều 229, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Áp dụng Điều 471 Bộ luật dân sự 2015; Áp dụng Điều 27 của Nghị định số 19/2019/NĐ-CP Nghị định về họ, hụi, biêu, phường của Chính phủ, ngày 19/02/2019 Áp dụng Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Huỳnh Bích V về việc yêu cầu bị đơn Nguyễn Văn T, bà Lê Thị N giao trả phần tiền hụi 175.000.000đồng (Bằng chữ: Một trăm bảy mươi lăm triệu đồng).

Bà Huỳnh Bích V có quyền khởi kiện lại vụ án, khi dây hụi mùa mệnh giá 10.000.000đồng, mở ngày 10/02/2017 (âm lịch), gồm 20 thành viên, mỗi năm khui 04 lần kết thúc mà phía bị đơn và nguyên đơn không thỏa thuận được với nhau.

Ông Nguyễn Văn T, bà Lê Thị N không tràn hụi cho bà Huỳnh Bích V, nên không xem xét giải quyết.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Huỳnh Bích V phải chịu số tiền 8.750.000 đồng. Chuyển số tiền tạm ứng phí 4.375.000 đồng bà Huỳnh Bích V đã nộp theo biên lai thu số 0005585 ngày 07/10/2020 và chuyển số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng bà Huỳnh Bích V đã nộp theo biên lai thu số 0007492 ngày 18/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành A thành án phí. Bà V còn phải nộp thêm số tiền 4.075.000 đồng tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

4. Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

72
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 32/2021/DS-ST

Số hiệu:32/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành A - Hậu Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 18/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;