Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 14/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ KT, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 14/2022/DS-ST NGÀY 14/04/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Ngày 14 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã KT, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 17/2022/TLST-DS, ngày 21 tháng 02 năm 2022 về việc tranh chấp hợp đồng góp hụi theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2022/QĐXX-ST ngày 04/4/2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Y, sinh năm 1956. (có mặt) Địa chỉ: Khu phố 2, Phường 2, thị xã KT, tỉnh Long An.

2. Bị đơn: Bà Trần Thị Th, sinh năm 1980 (có mặt).

Địa chỉ: Khu phố 5, Phường 1, thị xã KT, Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và phần trình bày của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa như sau: Bà Nguyễn Thị Y yêu cầu bà Trần Thị Th trả số tiền nợ hụi là 196.600.000 đồng (trong dây hụi mở ngày 25/8/2019, dây hụi mở ngày 05/11/2020).

Về căn cứ khởi kiện: Bà Y tham gia 02 dây hụi do bà Th làm chủ hụi, cụ thể:

Dây hụi 3.000.000 đồng/phần mở ngày 25/8/2019. Hụi có 25 phần, mãn hụi tháng 7/2021, bà Y tham gia 03 phần đã đóng được 21 kỳ, đến khi được lãnh hụi thì bà Th không giao tiền cho bà Y. Cụ thể số tiền đóng 03 phần trong 21 kỳ là: 3.000.000 đồng x 21 kỳ x 03 phần = 189.000.000 đồng. Tiền hoa hồng trả cho bà Th mỗi phần là 1.200.000 đồng, 03 phần hụi là 3.600.000 đồng. Như vậy số tiền bà Th phải trả cho bà Y 185.400.000 đồng. (theo đơn khởi kiện bà yêu cầu trả 189.000.000 đồng, nay bà Y xác định số tiền hụi yêu cầu sau khi trừ tiền hoa hồng 185.400.000 đồng).

Dây hụi 2.000.000 đồng/phần mở ngày 05/11/2020, hụi có 24 phần, bà Y tham gia 01 phần và đã đóng được 08 kỳ số tiền hụi thực đóng là 1.400.000 đồng x 8 kỳ = 11.200.000 đồng. Sau đó bà Th ngưng không thu hụi nữa, nay bà Y yêu cầu bà Th trả số tiền hụi đã đóng 11.200.000 đồng.

Tổng số tiền hụi bà Y yêu cầu bà Th trả: 185.400.000 đồng + 11.200.000 đồng = 196.600.000 đồng, không đồng ý cho trả dần.

Bị đơn bà Trần Thị Th trình bày trong quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa: Bà Th làm chủ hụi, có tổ chức 02 dây hụi, cụ thể:

Dây hụi 3.000.000 đồng/phần mở ngày 25/8/2019. Hụi có 25 phần, bà Y tham gia 03 phần đã đóng được 21 kỳ, bà thống nhất số tiền hụi nợ bà Y sau khi trừ tiền hoa hồng là 185.400.000 đồng.

Dây hụi 2.000.000 đồng/phần mở ngày 05/11/2020, hụi có 24 phần, bà Y tham gia 01 phần và đã đóng được 08 kỳ được số tiền là 11.200.000 đồng. Do tình hình dịch bệnh, một số hụi viên đóng hụi không đầy đủ nên dây hụi đã ngưng.

Nay bà Th đồng ý trả số tiền nợ hụi 185.400.000 đồng + 11.200.000 đồng = 196.600.000 đồng cho bà Y. Tuy nhiên do điều kiện kinh tế khó khăn, các hụi viên nợ tiền hụi của bà chưa trả nên bà đề nghị được trả dần mỗi tháng 3.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định như sau:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Nguyễn Thị Y khởi kiện yêu cầu Trần Thị Th trả tiền nợ hụi. Bị đơn bà Th cư trú tại Phường 1, thị xã KT nên căn cứ Điều 26, khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì đây là tranh chấp hợp đồng góp hụi, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã KT.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Vấn đề đã thống nhất: Bà Nguyễn Thị Y và bà Trần Thị Th thống nhất số tiền hụi bà Th nợ bà Y là 196.600.000 đồng (tiền hụi trong dây mở ngày 25/8/2019 và dây hụi mở ngày 05/11/2020). Như vậy, căn cứ Điều 471 Bộ luật Dân sự có cơ sở xác định giữa các bên có xác lập giao dịch hụi. Hiện nay số tiền hụi bà Th nợ bà Y là 196.600.000 đồng, bà Th đồng ý trả số tiền này cho bà Y.

[2.2] Vấn đề không thống nhất: Bà Y yêu cầu bà Th trả một lần hết số tiền 196.600.000 đồng. Ngược lại bà Trần Thị Th đề nghị được trả dần mỗi tháng 3.000.000 đồng cho đến khi hết nợ.

Xét thấy, Dây hụi mở ngày 25/8/2019 tính đến nay đã mãn hụi, bà Y đã đóng được 21 kỳ hụi nhưng bị đơn bà Th chưa giao tiền hụi cho bà Y là vi phạm nghĩa vụ, bà Y không đồng ý cho bị đơn trả dần nên Hội đồng xét xử cần buộc bị đơn có nghĩa vụ thanh toán theo yêu cầu của nguyên đơn. Đối với số tiền nợ hụi trong dây hụi mở ngày 05/11/2020, bà Y đã đóng được 11 kỳ số tiền hụi thực đóng là 11.200.000 đồng, các bên thỏa thuận ngưng hụi, bà Th đồng ý thanh toán số tiền trên cho bà Y, đây là sự tự nguyện thỏa thuận của các bên, bà Th đề nghị được trả dần nhưng không được nguyên đơn đồng ý. Do đó để bảo đảm quyền lợi cho nguyên đơn. Hội đồng xét xử cần buộc bị đơn thanh toán số tiền trên theo yêu cầu của nguyên đơn.

[2.3] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bị đơn bà Trần Thị Th thanh toán số tiền nợ hụi 196.600.000 đồng cho bà Y như bà Y yêu cầu.

[3] Về án phí: Căn cứ Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị đơn phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 147, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 274, 275, 280, Điều 471 Bộ luật Dân sự.

Áp dụng Nghị định số 19/2019/NĐ-CP của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường.

Áp dụng Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Y về việc tranh chấp hợp đồng góp hụi với bà Trần Thị Th.

Buộc bà Trần Thị Th có trách nhiệm trả cho bà Nguyễn Thị Y số tiền là 196.600.000 đồng (Một trăm chín mươi sáu triệu sáu trăm nghìn đồng).

Trường hợp bên phải thi hành án chậm thực hiện nghĩa vụ thì kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2. Về án phí: Bà Trần Thị Th phải nộp 9.830.000 đồng án phí. Bà Nguyễn Thị Y thuộc trường hợp được miễn nộp tạm ứng án phí và không phải nộp án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Y và bà Trần Thị Th có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 9 của Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

279
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 14/2022/DS-ST

Số hiệu:14/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị Xã Kiến Tường - Long An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 14/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;