Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 12/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦ THỪA - TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 12/2022/DS-ST NGÀY 28/02/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Vào ngày 28 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 124/2021/TLST-DS ngày 04 tháng 11 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng góp hụi”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2022/QĐXXST-DS ngày 04 tháng 01 năm 2022 và Thông báo về việc dời thời gian xét xử số: 63/TB-TA ngày 24 tháng 02 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà A, sinh năm: 1961 Địa chỉ: ấp M, xã N, huyện P, tỉnh Long An.

2. Bị đơn: Bà B, sinh năm: 1977 Ông C, sinh năm 1975 Địa chỉ: ấp M, xã N, huyện P, tỉnh Long An.

(các đương sự vắng mặt - có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 06/7/2021, trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà A trình bày:

Bà và bà B là chỗ quen biết do ở cùng địa phương. Bà B có tổ chức chơi hụi, bà A có tham gia chơi hụi, cụ thể:

Dây hụi khui ngày 15/02/2009 (âm lịch), hụi 3.000.000 đồng/phần, dây hụi có 25 phần, 01 năm khui 02 lần, khui vào ngày 15/02 và 15/8 âm lịch hàng năm, bà A tham gia 01 phần.

Bà A đóng hụi đầy đủ nhưng số tiền cụ thể bao nhiêu thì bà không nhớ, đến kỳ khui hụi thứ 20 thì bà B ngưng hụi.

Bà A có đến gặp bà B yêu cầu giao số tiền hụi đã đóng là 20 kỳ x 3.000.000 đồng/kỳ = 60.000.000 đồng, nhưng bà B chỉ giao cho bà 27.000.000 đồng.

Tính đến nay dây hụi này đã mãn nhưng bà B chưa giao số tiền hụi còn lại cho bà do đó bà khởi kiện yêu cầu bà B và chồng là ông C có trách nhiệm hoàn trả cho bà số tiền hụi còn lại nhưng chỉ yêu cầu số tiền là 20.000.000 đồng vì hiện hoàn cảnh bà B khó khăn, không yêu cầu tính lãi và trả 01 lần.

Số tiền bà tham gia chơi hụi là tiền riêng của bà, không liên quan đến chồng bà là ông T, đề nghị không đưa ông T vào tham gia tố tụng.

Bị đơn bà B trình bày:

Qua lời trình bày của bà A về việc chơi hụi thì bà thống nhất. Dây hụi khui đến kỳ 20 thì ngưng do bị vỡ hụi. Việc tổ chức chơi hụi chồng bà có biết, bà cũng sử dụng tiền hoa hồng từ việc tổ chức chơi hụi để chi tiêu trong gia đình.

Nay trước yêu cầu khởi kiện của bà A thì bà đồng ý cùng ông C liên đới hoàn trả cho bà A số tiền 20.000.000 đồng.

Bị đơn ông C không có bản tường trình ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà A.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử.

Tại phiên tòa bà Nguyễn Kim Thoa – đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủ Thừa phát biểu quan điểm:

Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tuân theo pháp luật tố tụng và các đương sự trong vụ án đã chấp hành pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.

Về nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn phải hoàn trả số tiền hụi 20.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Bà A khởi kiện yêu cầu bà B, ông C có trách nhiệm liên đới hoàn trả số tiền hụi còn lại là 20.000.000 đồng. Bà B, ông C cư trú tại ấp M, xã N, huyện P, tỉnh Long An. Căn cứ vào Điều 26, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án nhân dân huyện Thủ Thừa giải quyết theo thủ tục sơ thẩm. Căn cứ theo yêu cầu của đương sự xác định quan hệ pháp luật “Tranh chấp hợp đồng góp hụi”.

Ông T là chồng bà A trình bày số tiền bà A đang khởi kiện bà B, ông C là tiền riêng của bà A, trong vụ án này ông không có yêu cầu gì nên không cần thiết phải đưa ông T vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa hôm nay bà A, bà B và ông C vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt nên Tòa án căn cứ Điều 228 xét xử vắng mặt bà A, bà B và ông C.

[3] Về nội dung tranh chấp:

Bà A khởi kiện yêu cầu bà B, ông C có trách nhiệm liên đới hoàn trả số tiền hụi 20.000.000 đồng.

Xét lời trình bày và yêu cầu của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy:

Bà A và bà B trình bày thống nhất bà A có tham gia chơi hụi do bà B làm chủ thảo, dây hụi khui đến kỳ thứ 20 thì ngưng. Bà A không nhớ rõ số tiền hụi đã đóng 20 kỳ là bao nhiêu, khi vỡ hụi thì bà A đến gặp bà B đòi số tiền hụi là 60.000.000 đồng (tương đương 20 kỳ x 3.000.000 đồng/kỳ) thì bà B chỉ mới trả được 27.000.000 đồng, nay bà A khởi kiện yêu cầu bà B, ông C trả số tiền hụi còn lại nhưng chỉ yêu cầu số tiền 20.000.000 đồng vì hiện nay hoàn cảnh gia đình bà B gặp khó khăn, bà B đồng ý trả cho bà A số tiền hụi là 20.000.000 đồng, ông C không có ý kiến phản hồi gì về yêu cầu khởi kiện của bà A và có đơn xin xét xử vắng mặt, tuy bà A không nhớ rõ số tiền hụi đã đóng được 20 kỳ nhưng bà A và bà B thống nhất hiện nay bà B chưa giao đủ tiền hụi và bà B đồng ý hoàn trả cho bà A 20.000.000 đồng tiền hụi.

Bà B trình bày việc tổ chức chơi hụi chồng bà là ông C có biết, bà cũng sử dụng tiền hoa hồng từ việc tổ chức chơi hụi để chi tiêu trong gia đình, ông C trong quá trình giải quyết vụ án đã được Tòa án tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng, ông C đã biết được yêu cầu khởi kiện của bà A buộc ông C liên đới trả khoản nợ hụi này nhưng ông C không có ý kiến phản đối, do đó có căn cứ xác định bà B, ông C còn nợ bà A 20.000.000 đồng tiền hụi.

Căn cứ theo khoản 3 Điều 18 Nghị định 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 về họ, hụi, biêu, phường của Chính phủ thì “Nghĩa vụ của chủ họ … giao các phần họ cho thành viên lĩnh họ tại mỗi kỳ mở họ” và Điều 23 “Trách nhiệm của chủ họ do không giao hoặc giao không đầy đủ các phần họ cho thành viên được lĩnh họ: Trường hợp đến kỳ mở họ mà chủ họ không giao các phần họ cho thành viên được lĩnh họ thì chủ họ có trách nhiệm đối với thành viên đó như sau: 1. Thực hiện đúng nghĩa vụ quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 18 của Nghị định này.” Do đó căn cứ vào Điều 471, 468 Bộ luật dân sự năm 2015 buộc bà B và ông C có trách nhiệm liên đới hoàn trả cho bà A số tiền hụi 20.000.000 đồng.

Bà A không yêu cầu tính lãi nên không đề cập đến.

[3] Án phí dân sự sơ thẩm: Bà B, ông C phải liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 146 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về lệ phí, án phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 471, 468 Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị định 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 về họ, hụi, biêu, phường của Chính phủ; Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình 2014; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về lệ phí, án phí tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà A về việc “Tranh chấp hợp đồng góp hụi” với bà B, ông C.

Buộc bà B, ông C có trách nhiệm liên đới hoàn trả cho bà A số tiền hụi 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong khoản tiền trong vụ án này, hàng tháng bà B, ông C còn chịu thêm khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

Về án phí dân sự sơ thẩm: buộc bà B, ông C phải liên đới nộp 1.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Bà A không được hoàn trả tiền tạm ứng án phí sơ thẩm do được miễn nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 12/2022/DS-ST

Số hiệu:12/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thủ Thừa - Long An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;