Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 11/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 11/2022/DS-ST NGÀY 04/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Ngày 04 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 26/2022/TLST-DS, ngày 22 tháng 3 năm 2022 về việc tranh chấp hợp đồng góp hụi, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2022/QĐXXST-DS ngày 30 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Hồng T, sinh năm 1985. Địa chỉ: Ấp T, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt) - Bị đơn: Bà Võ Thị N, sinh năm 1986. Địa chỉ: Ấp T, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo nội dung đơn khởi kiện đề ngày 10/3/2022, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hồng T trình bày:

Bà Nguyễn Thị Hồng T có làm đầu thảo 02 dây hụi, bà Võ Thị N có tham gia chơi hụi của bà T cụ thể như sau:

- Vào ngày 15/8/2020 âm lịch bà T có làm đầu thảo dây hụi 2.000.000 đồng/1 phần, hình thức 01 tháng khui 01 lần, dây hụi có 21 phần, dây hụi bà N tham gia 02 phần. Sau khi hụi khui kỳ thứ 02 bà N hốt 01 chân hụi số tiền 26.460.000 đồng đã trừ tiền đầu thảo, bà T đã giao đủ số tiền cho bà N. Đến ngày 15/01/2021 âm lịch hụi khui kỳ thứ 06 bà N tiếp tục hốt chân hụi còn lại được số tiền 35.250.000 đồng đã trừ tiền đầu thảo, bà T đã giao đủ số tiền cho bà N. Sau khi bà N hốt xong 02 phần hụi trong dây hụi này bà N có nộp tiền hụi chết hàng tháng cho bà T đến lần khui kỳ thứ 17, đến ngày 15/01/2022 hụi khui kỳ thứ 18 thì bà N ngưng nộp tiền hụi chết cho bà T. Bà T đứng ra nộp thay tiền hụi chết kỳ thứ 18 là 01 kỳ, mỗi lần là 4.000.000 đồng/02 chân x 01 kỳ = 4.000.000 đồng. Khi hợp đồng góp hụi hai bên không có làm văn bản hợp đồng, nhưng bà T có mở sổ theo dõi. Do hụi chưa mãn, bà T không biết những lần hụi khui tiếp theo bà N có đóng hụi chết hàng tháng cho bà T hay không, nếu bà N không đóng mà bà T ra nộp thay hụi chết hàng tháng cho bà N thì bà T sẽ khởi kiện sau.

- Vào ngày 30/11/2020 âm lịch bà T có làm đầu thảo dây hụi 2.000.000 đồng/01 phần, hình thức 01 tháng khui 01 lần, dây hụi có 21 phần, dây hụi này bà N tham gia 02 phần. Sau khi hụi khui kỳ thứ 02 bà Nhị hốt 01 chân hụi số tiền là 26.460.000 đồng đã trừ tiền đầu thảo, bà T đã giao đủ tiền cho bà N. Đến ngày 30/02/2021 âm lịch hụi khui kỳ thứ 04 bà N tiếp tục hốt chân hụi còn lại được số tiền là 27.610.000 đồng đã trừ tiền đầu thảo, bà T đã giao đủ tiền cho bà N. Sau khi hốt 02 phần hụi bà N đã đóng hụi chết cho bà T đến kỳ khui lần thứ 13, đến ngày 30/12/2021 hụi khui kỳ thứ 14 thì bà N ngưng nộp tiền hụi chết cho bà T. Bà T đứng ra nộp thay tiền hụi chết kỳ thứ 14 đến kỳ thứ 15 là 02 kỳ, mỗi lần 4.000.000 đồng/02 chân x 02 kỳ = 4.000.000 đồng. Khi hợp đồng góp hụi thì hai bên không có làm văn bản hợp đồng, nhưng bà T có mở sổ theo dõi. Do hụi chưa mãn, bà T không biết những lần hụi khui tiếp theo bà N có đóng hụi chết hàng tháng cho bà T hay không, nếu bà N không đóng mà bà T đứng ra nộp thay tiền hụi chết hàng tháng cho bà N thì bà T sẽ khởi kiện thành vụ kiện khác.

Như vậy, trong hai dây hụi này bà N còn nợ bà T số tiền là 12.000.000 đồng. Vào ngày 22/02/2022 bà T có gửi đơn yêu cầu đến Tổ hòa giải ấp T để yêu cầu hòa giải buộc bà N hoàn trả số tiền còn nợ bà T trong hợp đồng góp hụi. Vào ngày 28/02/2022, Tổ hòa giải tiến hành hòa giải thì bà N thừa nhận nợ bà T trong hợp đồng góp hụi là 12.000.000 đồng, nhưng giữa bà T và bà N không thỏa thuận được thời gian và hình thức trả nợ nên hòa giải không thành.

Nay bà Nguyễn Thị Hồng T yêu cầu giải quyết buộc bà Võ Thị N có trách nhiệm trả cho bà T số tiền trong hợp đồng góp hụi với số tiền 12.000.000 đồng, bà T không yêu cầu tính lãi.

- Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn bà Võ Thị N trình bày: Bà N thống nhất xác định bà N có tham gia chơi hụi đúng như bà T trình bày, bà N còn nợ hụi bà T tính đến ngày 15/01/2022, còn nợ tiền hụi chết với số tiền nợ hụi 12.000.000 đồng nhưng do hoàn cảnh gia đình bà N gặp khó khăn bà N yêu cầu bà T cho bà N trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng, cho đến khi dứt nợ.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Sóc Trăng về việc tuân thủ và chấp hành pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, theo phát biểu và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Sóc Trăng, người tham gia tố tụng, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Theo đơn khởi kiện lập ngày 10/3/2022, bà Nguyễn Thị Hồng T yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng góp hụi đối với bị đơn bà Võ Thị N cư trú tại ấp T, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử xác định việc Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Sóc Trăng thụ lý, giải quyết vụ án theo trình tự sơ thẩm là đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết vụ án.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Bà Nguyễn Thị Hồng T và bà Võ Thị N trình bày: Bà T có làm chủ 02 dây hụi, bà N là thành viên tham gia mỗi dây 02 phần hụi trong 02 dây hụi này, bà N đã lĩnh tiền hụi, sau đó bà N không góp hụi chết cho bà T, nên bà T đã góp phần hụi chết thay cho bà N đến ngày 15/01/2022 với số tiền là 12.000.000 đồng, nhưng đến nay bà N chưa hoàn trả cho bà T. Như vậy, đã có đủ cơ sở xác định hiện nay bà N còn nợ bà T số tiền hụi của 02 dây hụi với số tiền 12.000.000 đồng. Còn lại những kỳ hụi chết từ ngày 15/01/2022 cho đến khi mãn hụi, tại phiên tòa hôm nay bà T không yêu cầu giải quyết trong vụ án này, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[2.2] Xét về hình thức, nội dung và mục đích của hợp đồng: Mặc dù hợp đồng góp hụi giữa bà T và bà N không lập thành văn bản, nhưng bà T và bà N cùng thừa nhận có hợp đồng góp hụi với nhau, cụ thể bà T là chủ hụi, bà N là thành viên, do đó xác định đây là hợp đồng góp hụi theo quy định tại Điều 471 của Bộ luật Dân sự; Điều 5, Điều 6 và Điều 7 của Nghị định số: 19/2019/NĐ-CP, ngày 19/02/2019 về họ, hụi, biêu, phường của Chính phủ. Bà T và bà N là những người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, khi giao kết hợp đồng đều hoàn toàn dựa trên cơ sở tự nguyện của các bên, đối tượng giao dịch được pháp luật cho phép, hình thức, nội dung và mục đích của hợp đồng phù hợp với pháp luật và không trái đạo đức xã hội, nên cần công nhận đây là hợp đồng góp hụi hợp pháp và giải quyết hậu quả phát sinh từ hợp đồng này theo quy định tại Điều 351 và Điều 385 của Bộ luật Dân sự; Điều 16 và Điều 24 của Nghị định số: 19/2019/NĐ-CP, ngày 19/02/2019 về họ, hụi, biêu, phường của Chính phủ.

[2.3] Xét về lỗi: Bà N là người có lỗi vì đã vi phạm nghĩa vụ không trả phần tiền hụi chết mà bà T đã góp thay cho bà N. Do đó, bà T yêu cầu bà N phải hoàn trả cho bà Thu số tiền hụi gốc 12.000.000 đồng, không tính lãi là hoàn toàn phù hợp theo quy định tại Điều 351 của Bộ luật Dân sự; Điều 16; Điều 17 và Điều 24 của Nghị định số: 19/2006/NĐCP, ngày 19/02/2019 về họ, hụi, biêu, phường của Chính phủ, là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Đối với ý kiến của bà Võ Thị N xin trả mỗi tháng 1.000.000 đồng, đến khi dứt nợ nhưng bà Nguyễn Thị T không đồng ý, xét thấy không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[4] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Sóc Trăng tại phiên tòa sơ thẩm là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về án phí sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Hồng T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Bà Võ Thị N phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo bản án: Hội đồng xét xử áp dụng Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự tuyên quyền kháng cáo cho các đương sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 351, khoản 2 Điều 357; Điều 385; Điều 471 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 5, Điều 6 và Điều 7 Điều 16; Điều 17 và Điều 24 của Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Hồng T. Buộc bà Võ Thị N có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị Hồng T số tiền là 12.000.000 đồng (mười hai triệu đồng).

2. Về chậm thực hiện nghĩa vụ: Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án không thi hành khoản tiền nêu trên, thì hàng tháng còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015, tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án cho đến khi thi hành án xong.

3. Về án phí sơ thẩm: Bà Võ Thị N phải chịu 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Bà Nguyễn Thị Hồng T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho bà T số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0001813 ngày 16/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Sóc Trăng.

5. Về quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Hồng T và bà Võ Thị N được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

111
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 11/2022/DS-ST

Số hiệu:11/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cù Lao Dung - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 04/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;