TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH HƯNG, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 07/2022/DS-ST NGÀY 07/04/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI
Ngày 07 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 97/2021/TLST-DS ngày 08 tháng 10 năm 2021 về “Tranh chấp hợp đồng góp hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2022/QĐXXST-DS ngày 09 tháng 02 năm 2022 và Quyết định hoãn phiện tòa số 04/2022/QĐST-DS ngày 11/3/2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Trúc L, sinh năm 1971. Địa chỉ: Ấp G, xã K, huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An. Có mặt.
- Bị đơn:
1. Bà Ngô Thị Đ, sinh năm 1978. (Tên gọi khác: Ng). Vắng mặt.
2. Ông Nguyễn Hiếu H, sinh năm 1970. Vắng mặt.
Cùng địa chỉ: Ấp G, xã K, huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 16/9/2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Phạm Thị Trúc L trình bày:
Bà Ngô Thị Đ và ông Nguyễn Hiếu H có tham gia một số dây hụi do bà làm đầu thảo, tính đến tháng 9 năm 2021 còn thiếu bà L số tiền 28.000.000 đồng, cụ thể như sau:
Dây hụi 3.000.000 đồng, 01 tháng khui 01 lần, bắt đầu khui ngày 20/01/2020 (al), đến ngày 20/8/2021 (al) là mãn hụi, có 21 người chơi, bà Đ, ông H tham gia 01 phần, tên trong danh sách là H sửa xe. Khui lần thứ 3 thì bà Đ bỏ thăm hốt hụi, bà đã giao tiền hụi đầy đủ cho bà Đ, bà Đ có trách nhiệm đóng lại 18 lần hụi chết nhưng bà Đ chưa đóng hụi chết lần nào, nên tháng 7 năm 2020 bà đã khởi kiện yêu cầu bà Đẹp trả 04 lần vi phạm với số tiền 12.000.000 đồng và được giải quyết tại Bản án dân sơ thẩm số 21/2020/DS-ST ngày 25/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Hưng và Bản án dân sự phúc thẩm số 441/2020/DS- PT ngày 17/12/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An. Sau đó bà Đ và ông H nợ tiếp 08 lần hụi chết với số tiền 24.000.000 đồng và bà L cũng đã khởi kiện được Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Hưng xét xử tại Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2021/DS-ST ngày 30/9/2021. Hiện tại dây hụi này đã mãn và bà Đ, ông H còn nợ bà L 06 lần hụi chết là 18.000.000 đồng.
Dây hụi mùa 10.000.000 đồng, mỗi năm khui 02 lần, bắt đầu khui từ vụ đông xuân năm 2015 đến hè thu năm 2021 là mãn hụi, có 14 người chơi, bà Đ, ông H tham gia 01 phần, tên trong danh sách là vợ chồng H. Khui lần thứ 1 thì bà Đ bỏ thăm hốt hụi, bà giao tiền hụi đầy đủ cho bà Đ, bà Đ có trách nhiệm đóng lại 13 lần hụi chết nhưng bà Đ chỉ đóng được 10 lần hụi chết, sau đó không đóng nữa nên tháng 7 năm 2020 bà đã khởi kiện yêu cầu bà Đ trả 01 lần vi phạm với số tiền 10.000.000 đồng và được giải quyết tại Bản án dân sự sơ thẩm số 21/2020/DS-ST và Bản án dân sự phúc thẩm số 441/2020/DS-PT ngày 17/12/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An. Đến tháng 4 năm 2021 bà Đ và ông H nợ 01 lần hụi chết với số tiền 10.000.000 đồng, bà L đã khởi hiện và được Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Hưng xét xử chấp nhận yêu cầu tại bản án dân sự sơ thẩm số 24/2021/DS-ST ngày 30/9/2021. Hiện tại dây hụi này đã mãn và bà Đ, ông H còn nợ bà L 01 lần hụi chết của vụ hè thu năm 2021 là 10.000.000 đồng.
Bà Phạm Thị Trúc L khởi kện yêu cầu bà Ngô Thị Đ và ông Nguyễn Hiếu H liên đới trả cho bà số tiền hụi chết mà bà đã choàng cho các thành viên là 28.000.000 đồng, không yêu cầu tiền lãi phát sinh từ thời điểm đóng choàng hụi đến ngày xét xử.
Từ khi thụ lý vụ án Tòa án đã thông báo, tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng bà Ngô Thị Đ và ông Nguyễn Hiếu H không đến Tòa án để thể hiện ý kiến, đồng thời bà Ngô Thị Đ và ông Nguyễn Hiếu H vắng mặt lần thứ hai không lý do.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thẩm quyền: Căn cứ đơn khởi kiện của nguyên đơn, Tòa án xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp về “Hợp đồng góp hụi” được quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn có nơi cư trú tại ấp G, xã K, huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Hưng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Bị đơn bà Ngô Thị Đ và ông Nguyễn Hiếu H được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt nên căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.
[3] Về thời hiệu khởi kiện của vụ án: Do không có đương sự nào đề nghị áp dụng thời hiệu, căn cứ quy định tại Điều 184 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án không xem xét về thời hiệu đối với vụ án này.
[4] Về nội dung vụ án, xét yêu cầu của bà L nhận thấy:
[4.1] Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 21/2020/DS-ST ngày 25/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Hưng và Bản án dân sự phúc thẩm số 441/2020/DS-PT ngày 17/12/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An thể hiện bà L và bà Đ thống nhất được với nhau việc bà L làm đầu thảo, bà Đ có tham gia 04 dây hụi của bà L và đã hốt tất cả 04 dây hụi, gồm hụi tháng 3.000.000 đồng mở ngày 01/6/2018 (al); dây hụi tháng 3.000.000 đồng mở ngày 15/5/2019 (al); dây hụi tháng 3.000.000 đồng mở ngày 20/01/2020 (al) và dây hụi mùa 10.000.000 đồng, bắt đầu mở từ vụ đông xuân năm 2015 và quyết định buộc bà Đ và ông H có trách nhiệm liên đới trả cho bà Ly 37.000.000 đồng.
[4.2] Tiếp theo đó tại Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2021/DS-ST ngày 30/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Hưng cũng đã giải quyết chấp nhận yêu cầu khởi kiện củ bà Trúc L buộc bà Đ và ông H có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Phạm Thị Trúc L số tiền 43.000.000 đồng mà bà L đã đóng choàng hụi cho bà Đ, ông H đối với 03 dây hụi đến hạn không đóng gồm dây hụi tháng 3.000.000 đồng mở ngày 15/5/2019 (al); dây hụi tháng 3.000.000 đồng mở ngày 20/01/2020 (al) và dây hụi mùa 10.000.000 đồng, bắt đầu mở từ vụ đông xuân năm 2015. Tính đến tháng 9 năm 2021, các dây hụi khác đã mãn, chỉ còn lại dây hụi tháng 3.000.000 đồng mở ngày 20/01/2020 (al) và dây hụi mùa 10.000.000 đồng, bắt đầu mở từ vụ đông xuân năm 2015 là vẫn còn hoạt động, đối chiếu với số tiền bà L yêu cầu sau khi trừ các phần hụi đã được giải quyết trước đây với số tiền hụi còn lại tính đến hụi xuống chót là hoàn toàn phù hợp.
[4.3] Bà L cho rằng đã choàng hụi với số tiền 28.000.000 đồng. Bà Đ và ông H không có ý kiến, không có chứng cứ chứng minh đã đóng hụi và giữa bà Đ và ông H là vợ chồng hợp pháp, có đăng ký kết hôn và quá trình bà Đ chơi hụi, hốt hụi của bà L thì ông H và bà Đ vẫn đang chung sống một nhà, chi tiêu sinh hoạt gia đình chung. Bà Đ tham gia chơi hụi và hốt hụi nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu trong gia đình nên ông H phải có trách nhiệm liên đới cùng bà Đ trả số tiền hụi đến hạn cho bà L là phù hợp với quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân gia đình.
Từ những lập luận trên có cơ sở xác định yêu cầu khởi kiện của bà L là phù hợp và có căn cứ nên được chấp nhận toàn bộ.
[5] Về án phí: Yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên được hoàn lại tiền tạm ứng án phí. Bị đơn phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền phải trả cho nguyên đơn (28.000.000 đồng x 5% = 1.400.000 đồng) Vì các lẽ trên, QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 92, Điều 147, Điều 184, Điều 227, Điều 228, Điều 229 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ các điều 357, 468, 471 Bộ luật Dân sự; Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 và Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ quy định về họ, hụi, biêu, phường; Căn cứ Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình; Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của Phạm Thị Trúc L về việc tranh chấp hợp đồng góp hụi với bà Ngô Thị Đ và ông Nguyễn Hiếu H.
Buộc bà Ngô Thị Đ và ông Nguyễn Hiếu H có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Phạm Thị Trúc L 28.000.000 (hai mươi tám triệu) đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
2. Về án phí: Buộc bà Ngô Thị Đ và ông Nguyễn Hiếu H phải liên đới chịu 1.400.000 (một triệu bốn trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.
Hoàn trả cho bà Phạm Thị Trúc L 700.000 (bảy trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí bà đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Hưng theo biên lai số 0003503 ngày 08/10/2021.
Báo cho nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đối với bị đơn được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 07/2022/DS-ST
Số hiệu: | 07/2022/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Hưng - Long An |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 07/04/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về