TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠNH PHÚ, TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 07/2021/DS–ST NGÀY 02/02/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI
Trong ngày 02 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 291/2020/TLST – DS ngày 10 tháng 11 năm 2020 về tranh chấp “hợp đồng góp hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2021/QĐXXST–DS ngày 15 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự :
- Nguyên đơn: Chị Ngô Thị Th, sinh năm: 1974; địa chỉ: 1/1 ấp TA, xã TP, huyện P, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn Ngô Thị Th: Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm: 1954; địa chỉ: ấp HT, xã TH, huyện MCN, tỉnh Bến Tre theo văn bản Hợp đồng uỷ quyền ngày 16/11/2020 (có mặt).
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Kim T, sinh năm: 1966; địa chỉ: 95/4 ấp Thạnh B, xã TP, huyện P, tỉnh Bến Tre (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Văn H, sinh năm: 1968;
địa chỉ: 95/4 ấp TB, xã TP, huyện P, tỉnh Bến Tre (có Đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo nội dung đơn khởi kiện, bản khai, trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa ông Nguyễn Văn Thành - người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn chị Ngô Thị Th trình bày:
Chị Th có tham gia chơi hụi do bà Nguyễn Thị Kim T là chủ hụi (đầu thảo). Tất cả các dây hụi đều tính theo ngày, tháng, năm của âm lịch. Khi tham gia chơi hụi thì bà Thoa và các hụi viên trong đó có chị Th đều thống nhất là chơi hụi có lãi.
Bà Thoa làm chủ hụi thì hưởng tiền huê hồng (đầu thảo) được tính nếu hụi loại 1.000.000 đồng thì hưởng huê hồng 500.000 đồng/01tháng/01người hốt hụi, nếu hụi loại 500.000 đồng thì hưởng huê hồng 250.000 đồng/01tháng/01người hốt hụi. Theo thống nhất giữa bà Thoa và các hụi viên sau khi hụi viên kêu hụi và hốt hụi thì sau 05 ngày thì chủ hụi sẽ giao tiền cho các hụi viên.
Chị Th tham gia các dây hụi như sau:
- Dây 1: loại hụi 1.000.000 đồng mở hụi ngày 30/01/2018, gồm 31 phần, tham gia 01 phần, hụi mãn ngày 02/5/2020, chị Th hốt hụi chót, số tiền hụi bà Thoa phải giao cho chị Th 29.500.000 đồng đã trừ đầu thảo 500.000 đồng nhưng cho đến nay bà Thoa không giao tiền.
- Dây 2: loại hụi 1.000.000 đồng mở hụi ngày 02/02/2018, gồm 30 phần, tham gia 01 phần, hụi mãn ngày 30/5/2020, chị Th hốt hụi chót, số tiền hụi bà Thoa phải giao cho chị Th 28.500.000 đồng đã trừ đầu thảo 500.000 đồng nhưng cho đến nay bà Thoa không giao tiền.
- Dây 3: loại hụi 1.000.000 đồng mở hụi ngày 25/8/2018, gồm 27 phần, tham gia 01 phần, hụi mãn ngày 25/9/2020, đóng hụi được 23 tháng. Ngày 27/7/2020 bà Thoa tuyên bố ngừng hụi (úp hụi) nên chị Th yêu cầu bà Thoa phải trả cho chị Th số tiền hụi được tính là 01 phần x 23 tháng x 1.000.000 đồng = 23.000.000 đồng - Dây 4: loại hụi 1.000.000 đồng mở hụi ngày 25/10/2018, gồm 26 phần, tham gia 01 phần, đóng hụi được 21 tháng. Ngày 27/7/2020 bà Thoa tuyên bố ngừng hụi (úp hụi) nên chị Th yêu cầu bà Thoa phải trả cho chị Th số tiền hụi được tính là 01 phần x 21 tháng x 1.000.000 đồng = 21.000.000 đồng - Dây 5: loại hụi 1.000.000 đồng mở hụi ngày 20/01/2019, gồm 22 phần, tham gia 01 phần, hụi mãn ngày 20/9/2020, đóng hụi được 19 tháng. Ngày 27/7/2020 bà Thoa tuyên bố ngừng hụi (úp hụi) nên chị Th yêu cầu bà Thoa phải trả cho chị Th số tiền hụi được tính là 01 phần x 19 tháng x 1.000.000 đồng = 19.000.000 đồng.
Tổng số tiền chị Th yêu cầu bà Thoa trả cho chị Th là 121.000.000 đồng.
Chị Th không đồng ý việc bà Thoa đề nghị trả lại số tiền hụi thực tế mà chị Th đã đóng cho từng dây hụi vì hụi chị Thắm tham gia là hụi có lãi trong đó dây hụi 01 và 02 là hụi mãn chị Th hốt hụi chót; 03 dây còn lại là do bà Thoa tuyên bố ngừng hụi nửa chừng. Số tiền hụi mà bà Thoa đề nghị trả cho chị Th là do bà Thoa tự tính, chị không đồng ý. Khi ngừng hụi chị Th và bà Thoa có thống nhất lại các dây hụi mà chị Th tham gia và bà Thoa có ký tên xác nhận chị Th đã cung cấp văn bản này cung cấp cho Toà.
Việc mở hụi cho các hụi viên tham gia thì tổ chức khui hụi tại nơi bà Thoa ở là số nhà 95/4 ấp Thạnh B, xã Tân Phong, huyện Thạnh Phú tỉnh Bến Tre. Ông Trần Văn Hùng là chồng bà Thoa sống cùng địa chỉ với bà Thoa, bà Thoa làm chủ hụi hưởng huê hồng là dùng vào mục đích phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của gia đình bà Thoa, bà Thoa và ông Hùng không có làm kinh tế riêng.
Khi bà Thoa tuyên bố ngừng hụi chị Th có nhiều lần yêu cầu bà Thoa trả tiền hụi nhưng bà Thoa hứa hẹn trả dần chị Th không đồng ý. Các dây hụi mà chị Th tham gia đều là hụi có lãi nên việc bà Thoa đề nghị trả tiền hụi thực đóng chị Th không đồng ý.
Nay chị Th yêu cầu bà Thoa và ông Hùng có trách nhiệm liên đới trả cho chị số tiền nợ hụi là 121.000.000 đồng. Chị Th xin tự nguyện rút toàn bộ yêu cầu tính tiền lãi chậm trả, không đồng ý yêu cầu trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng của bà Thoa.
*Theo nội dung các Biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa bị đơn bà Nguyễn Thị Kim Thoa trình bày:
Bà là chủ hụi (đầu thảo) từ năm 2016 cho đến nay. Chị Ngô Thị Th tham gia của bà các dây hụi như sau:
- Dây 1: loại hụi 1.000.000 đồng mở hụi ngày 30/01/2018, gồm 31 phần, tham gia 01 phần, hụi mãn ngày 02/5/2020, Th hốt hụi chót, số tiền hụi bà phải giao là 29.500.000 đồng.
- Dây 2: loại hụi 1.000.000 đồng mở hụi ngày 02/02/2018, gồm 30 phần, tham gia 01 phần, hụi mãn ngày 30/5/2020, Th hốt hụi chót, số tiền hụi bà phải giao là 28.500.000 đồng.
- Dây 3: loại hụi 1.000.000 đồng mở hụi ngày 25/8/2018, gồm 27 phần, tham gia 01 phần, hụi mãn ngày 25/9/2020, tuy nhiên ngày 27/7/2020 bà tuyên bố ngừng hụi (úp hụi) nên Th đóng hụi được 23 tháng, số tiền thực tế Th đã đóng hụi là 11.920.000 đồng.
- Dây 4: loại hụi 1.000.000 đồng mở hụi ngày 25/10/2018, gồm 26 phần, tham gia 01 phần, hụi mãn ngày 25/10/2020, tuy nhiên ngày 27/7/2020 bà tuyên bố ngừng hụi (úp hụi) nên Th đóng hụi được 21 tháng, số tiền thực tế Th đã đóng hụi là 11.850.000 đồng.
- Dây 5: loại hụi 1.000.000 đồng mở hụi ngày 20/01/2019, gồm 22 phần, tham gia 01 phần, hụi mãn ngày 20/9/2020, tuy nhiên ngày 27/7/2020 bà tuyên bố ngừng hụi (úp hụi) nên Th đóng hụi được 19 tháng, số tiền thực tế Th đã đóng hụi là 10.500.000 đồng Tất cả các dây hụi đều tính theo ngày, tháng, năm của âm lịch. Khi tham gia chơi hụi thì bà và các hụi viên đều thống nhất là chơi hụi có lãi. Bà làm chủ hụi thì hưởng tiền huê hồng (đầu thảo) được tính nếu hụi loại 1.000.000 đồng thì hưởng huê hồng 500.000 đồng/01 tháng/01người hốt hụi, nếu hụi loại 500.000 đồng thì hưởng huê hồng 250.000 đồng/01 tháng/01người hốt hụi. Theo thống nhất giữa bà và các hụi viên sau khi hụi viên kêu hụi và hốt hụi thì sau 05 ngày thì chủ hụi sẽ giao tiền cho các hụi viên.
Việc mở hụi cho các hụi viên tham gia thì tổ chức khui hụi tại nơi bà ở là số nhà 95/4 ấp Thạnh B, xã Tân Phong, huyện Thạnh Phú tỉnh Bến Tre. Ông Trần Văn Hùng là chồng bà sống chung với bà đã 35 năm, bà và ông Hùng có đăng ký kết hôn tại UBND xã Tân Phong, hiện bà còn giữ giấy chứng nhận đăng ký kết hôn nhưng bà không nhớ rõ bà đăng ký kết hôn năm nào. Chồng bà là Trần Văn Hùng sinh sống cùng địa chỉ với bà ông Hùng có biết việc bà làm chủ hụi nhưng không đồng ý cho bà làm chủ hụi, nhiều lần rầy la bà. Những lúc bà đi khám bệnh không có nhà thì cũng có 01 hoặc 02 lần gì đó ông Hùng có nhận dùm tiền hụi của một vài hụi viên đóng hụi cho bà còn sau đó thì ông Hùng không đồng ý nhận dùm bà nữa. Ngoài ra ông Hùng cũng không tham gia gì trong việc bà mở hụi, thu gom tiền hụi hay nhận tiền hụi của các hụi viên đóng hụi. Số tiền huê hồng (đầu thảo) mà bà nhận được từ việc làm chủ hụi thì bà không sử dụng gì trong gia đình mà dùng toàn bộ tiền huê hồng để trị bệnh cho cá nhân bà. Từ khoảng tháng 5/2020 do có nhiều hụi viên hốt hụi nhưng không đóng hụi nên bà phải gồng hụi và do bà đi điều trị bệnh về nên ngày 27/7/2020 bà tuyên bố úp hụi. Bà có hứa hẹn với chị Th số tiền hụi của 02 dây hụi đã mãn thì xin trả dần mỗi tháng 2.000.000 đồng, còn số tiền hụi của 03 dây hụi ngừng hụi vào tháng 07/2020 thì để tính sau thì bà xin trả số tiền hụi thực tế đã đóng nhưng chị Th không đồng ý.
Bà và chị Th có tổng kết các dây hụi mà Th tham gia chơi hụi nên bà có ký tên xác nhận và Th cũng có ký tên xác nhận, mỗi bên giữ 01 bản, bà đã nộp cho Toà bản gốc văn bản này.
Việc bà có trình bày số tiền thực đóng của mỗi dây hụi mà chị Th tham gia, bà tính được như vậy là do bà nhớ được số tiền mà mỗi tháng các hụi viên kêu hụi để hốt rồi trừ với từng loại hụi 500.000 đồng hoặc 1.000.000 đồng thì sẽ ra số tiền hụi thực đóng của từng tháng rồi nhân lên số tháng hụi đã kêu hốt hụi cho đến ngày bà úp hụi sẽ ra số tiền hụi thực đóng. Đồng thời do khi bà tuyên bố úp hụi thì các hụi viên khác có tham gia cùng với chị Th tự tính và đồng ý cho bà trả số tiền hụi thực tế đã đóng này nên bà lấy đó làm cơ sở tính số tiền thực tế mà chị Th đã đóng hụi cho bà để bà đề nghị giao trả cho chị Th. Khi giao hụi cho hụi viên hốt hụi của từng tháng thì bà không có giao giấy tờ hay văn bản gì về việc hốt hụi, bà có lập sổ hụi danh sách của các hụi viên mỗi tháng hụi viên nào kêu hốt được hụi thì bà gạt tên hụi viên đó chứ cũng không ghi vào sổ hụi số tiền cụ thể hụi viên đó đã kêu hốt hụi, sổ này bà tự giữ tự theo dõi các hụi viên không có ký tên xác nhận. Việc thu tiền của các hụi viên thì được tính trên cơ sở số tiền hụi viên đã kêu hốt hụi trừ đi loại hụi đã mở thì bà thông báo miệng với các hụi viên còn lại số tiền hụi phải đóng của từng tháng chứ không ghi chép gì.
Ngày mở hụi, loại hụi đã tham gia, số phần hụi và các dây hụi mà chị Th đã tham gia cũng như số tháng thực tế đã đóng tiền hụi, ngày úp hụi bà và chị Th đã thống nhất với nhau. Khi tham gia hụi là hụi có lãi tuy nhiên chị Th đề nghị bà trả tiền hụi có lãi nhưng bà đề nghị xin được trả tiền hụi không có lãi là trả tiền hụi thực tế đã đóng vì có nhiều hụi viên không đóng hụi cho bà dẫn đến việc bà gặp khó khăn về kinh tế nên không có khả năng để trả tiền hụi có lãi theo yêu cầu của chị Th được. Nếu tính số tiền hụi có lãi thì số tiền chị Th kiện bà trả tiền hụi cho từng dây hụi là đúng Nay qua yêu cầu khởi kiện của chị Th thì bà không đồng ý trả số tiền hụi là 121.000.000 đồng và tiền lãi chậm trả. Bà yêu cầu được trả số tiền hụi không lãi cho 02 dây hụi đã mãn là 30.000.000 đồng và 03 dây hụi bà ngừng hụi là 34.270.000 đồng, tổng số tiền bà đề nghị trả tiền hụi cho chị Th là 64.270.000 đồng là hụi không lãi và xin trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng.
* Theo nội dung Biên bản lấy lời khai, Đơn xin xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn Hùng trình bày Ông và bà Nguyễn Thị Kim Thoa là vợ chồng hợp pháp, có đăng ký kết hôn sống chung với nhau đã 35 năm qua tại nơi cư trú 95/4 ấp Thạnh B, xã Tân Phong, huyện Thạnh Phú tỉnh, Bến Tre. Khi còn khoẻ mạnh thì ông và bà Thoa cùng làm cùng ăn cùng hưởng. Nhưng những năm gần đây ông bị bệnh nên kinh tế gia đình phụ thuộc vào các con, ông không lao động nặng được; còn bà Thoa cũng có bệnh trong người bà Thoa chơi hụi lấy tiền tự lo trị bệnh, có khi còn xin thêm các con. Việc bà Thoa làm đầu thảo (chủ hụi) mở hụi cho các hụi viên tại nhà ông đã không đồng ý nhiều lần khuyên nhủ nhưng bà Thoa vẫn cứ làm. Ông không tham gia chơi hụi, cũng không phụ giúp gì trong việc bà Thoa làm chủ hụi, ai kêu ai hốt ông cũng không biết. Tiền lời từ việc chơi hụi ông không sử dụng. Nay chị Th khởi kiện buộc ông và bà Thoa phải có nghĩa vụ liên đới trả tiền hụi cho chị Th thì ông không đồng ý, chị Th và bà Thoa tự chơi hụi với nhau thì tự giải quyết ông không có trách nhiệm gì.
Do điều kiện sức khoẻ nên ông xin được vắng mặt trong suốt quá trình toà án giải quyết vụ án hoà giải, xét xử và các lần mời khác của toà để giải quyết vụ án. Việc ông xin vắng mặt là hoàn toàn tự nguyện không bị ai ép buộc.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:
- Về trình tự, thủ tục: Thẩm phán và Hội đồng xét xử sơ thẩm đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự từ khi thụ lý cho đến khi đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa sơ thẩm. Tuy nhiên về việc chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát chậm hơn so với quy định.
- Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng:
Nguyên đơn, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71, 72, 73 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
- Về nội dung: qua các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ, xét thấy hợp đồng góp hụi được xác lập trên cơ sở tự nguyện, không trái pháp luật đạo đức xã hội nên được pháp luật thừa nhận. Quá trình thực hiện hợp đồng góp hụi các đương sự thống nhất về số dây hụi, số tháng góp hụi, thời gian mở hụi, hụi có lãi, số tiền hụi có lãi bà Thoa chưa trả cho chị Th. Đối với chị Th yêu cầu trả tiền hụi có lãi, bà Thoa yêu cầu trả tiền hụi thực tế đã góp hụi. Nhận thấy khi thỏa thuận hợp đồng góp hụi các bên đều thừa nhận tất cả các dây hụi đều là hụi có lãi, bà Thoa cũng thừa nhận nếu tính hụi có lãi thì chị Th khởi kiện số tiền 121.000.000 đồng là đúng. Do đây là hụi có lãi, bà Thoa đơn phương tuyên bố ngừng hụi là vi phạm hợp đồng góp hụi làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các hụi viên nên chị Th khởi kiện bà Thoa là có căn cứ chấp nhận. Bà Thoa yêu cầu được trả số tiền thực tế chị Th đã đóng hụi, lời trình bày của bà Thoa là không có cơ sở vì khi giao kết hợp đồng góp hụi bà Thoa thừa nhận là hụi có lãi, hàng tháng khi hụi viên hốt hụi bà thu tiền đầu thảo. Do đó bà Thoa phải có nghĩa vụ trả tiền hụi có lãi cho chị Th là phù hợp.
- Về trách nhiệm liên đới trả nợ của ông Trần Văn Hùng (chồng bà Thoa): bà Thoa và ông Hùng là vợ chồng hợp pháp, hiện vẫn đang tồn tại mối quan hệ hôn nhân, ông bà không có thỏa thuận làm kinh tế riêng. Mặt khác việc bà Thoa làm chủ hụi thu tiền đầu thảo nhằm mục đích chữa bệnh cho bà cũng được xem là phục vụ nhu cầu thiết yếu của gia đình. Do đó cần buộc ông Hùng có trách nhiệm liên đới với bà Thoa trả nợ cho chị Th là phù hợp. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bà Thoa và ông Hùng có nghĩa vụ liên đới trả cho chị Ngô Thị Th số tiền nợ hụi 121.000.000 đồng. Đồng thời đề nghị đình chỉ yêu cầu khởi kiện của chị Th về yêu cầu tính tiền lãi chậm trả.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: căn cứ vào đơn khởi kiện của nguyên đơn chị Ngô Thị Th yêu cầu bị đơn bà Nguyễn Thị Kim Thoa trả tiền nợ hụi nên xác định đây là tranh chấp “hợp đồng góp hụi” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng Dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn bà Phạm Thị Kim Thoa có nơi cư trú tại xã Tân Phong, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre nên theo điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú.
[2] Về tố tụng: người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn Hùng có yêu cầu xét xử vắng mặt.Vì vậy căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông Hùng.
[3] Về nội dung vụ án: Hợp đồng góp hụi giữa chị Th và bà Thoa được xác lập trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng không bên nào bị lừa dối hoặc bị ép buộc và không vi phạm quy định tại Điều 122, Điều 479 của Bộ luật Dân sự năm 2005, nên được xem là hợp đồng hợp pháp. Do vậy làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên nên các bên phải có trách nhiệm thực hiện các thỏa thuận đã cam kết.
[4] Về nghĩa vụ trả tiền hụi: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị Th, người đại diện hợp pháp của chị Th và bà Thoa đều thống nhất với nhau về số dây hụi, số tháng góp hụi, thời gian mở hụi, các dây hụi đều là hụi có lãi, số tiền hụi có lãi bà Thoa chưa trả cho chị Th nên đây là tình tiết, sự kiện không phải chứng minh đối với các đương sự theo quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Đối với chị Th yêu cầu trả tiền hụi có lãi, bà Thoa yêu cầu trả tiền hụi thực tế đã góp hụi. Hội đồng xét xử thấy rằng khi tham gia hợp đồng góp hụi các bên đều thừa nhận tất cả các dây hụi đều là hụi có lãi, bà Thoa cũng thừa nhận nếu tính hụi có lãi thì chị Th khởi kiện bà Thoa số tiền 121.000.000 đồng là đúng. Do đây là hụi có lãi, bà Thoa tự ý tuyên bố ngừng hụi là vi phạm hợp đồng góp hụi, có lỗi trong việc thực hiện nghĩa vụ của chủ hụi làm ảnh hưởng đến quyền lợi của hụi viên, chị Th không vi phạm nghĩa vụ của hụi viên nên chị Thắm khởi kiện bà Thoa là có căn cứ chấp nhận. Bà Thoa yêu cầu được trả số tiền thực tế chị Thắm đã đóng hụi và xin trả dần nhưng không được chị Thắm đồng ý cho nên lời trình bày của bà T là không có cơ sở chấp nhận. Bởi lẽ khi giao kết hợp đồng góp hụi bà T thừa nhận tất cả các dây hụi đều là loại hụi hụi có lãi, hàng tháng khi hụi viên hốt hụi bà đều thu tiền đầu thảo. Do đó bà T phải có nghĩa vụ trả tiền hụi có lãi 121.000.000 đồng cho chị Th là phù hợp.
[5] Về trách nhiệm liên đới trả nợ của ông Trần Văn H (chồng bà T): Xét thấy bà T và ông H là vợ chồng hợp pháp, có thực hiện việc đăng ký kết hôn từ năm 1996 và hiện vẫn đang tồn tại mối quan hệ hôn nhân. Bà T trình bày bà và H không có thỏa thuận làm kinh tế riêng. Mặt khác việc bà T làm chủ hụi thu tiền đầu thảo nhằm mục đích chữa bệnh cho bà cũng được xem là phục vụ nhu cầu thiết yếu của gia đình và vì vậy cần buộc ông H có trách nhiệm liên đới với bà T trả số tiền nợ hụi 121.000.000 đồng cho chị Th là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 20 và Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình.
[6] Việc chị Th rút yêu cầu khởi kiện đối với bà T và ông H về yêu cầu tính tiền lãi chậm trả, xét đây là sự tự nguyện của chị Th nên cần đình chỉ yêu cầu này là phù hợp.
[7] Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bà T và ông H phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, Điều 39, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 147, Điều 217, khoản 2 Điều 244, Điều 117, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự;
Căn cứ các Điều 479 Bộ luật Dân sự 2005; Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27 tháng 11 năm 2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường; Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015; Nghị định 19/2019/NĐ-CP ngày 19 tháng 02 năm 2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường, Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Ngô Thị Th đối với bị đơn bà Nguyễn Thị Kim T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn H. Buộc bà Nguyễn Thị Kim T và ông Trần Văn H có trách nhiệm liên đới trả cho chị Ngô Thị Th số tiền nợ hụi 121.000.000 đồng.
Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Ngô Thị Th đối với Nguyễn Thị Kim T và ông Trần Văn H về yêu cầu tính tiền lãi chậm trả.
Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, có đơn yêu cầu của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch:
Bà Nguyễn Thị Kim T và ông Trần Văn H có trách nhiệm liên đới chịu 6.050.000 đồng.
Chị Ngô Thị Th được Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạnh Phú hoàn trả số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 3.075.000 đồng theo biên lai thu số 0003317 ngày 10/11/2020.
3. Các đương sự có mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ
4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./
Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 07/2021/DS–ST
Số hiệu: | 07/2021/DS–ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Phú - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 02/02/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về