Bản án 24/2023/DS-PT về tranh chấp hợp đồng gia công

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 24/2023/DS-PT NGÀY 24/02/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GIA CÔNG

Ngày 24 tháng 02 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số: 08/2023/DS-PT ngày 12 tháng 01 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng gia công”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 46/2022/DS-ST ngày 17 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện VL, tỉnh Vĩnh Long bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 19/2023/QĐ-PT ngày 07 tháng 02 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thái AL – sinh năm: 1995(có mặt).

Địa chỉ cư trú: ấp A Đ, xã TH, huyện VL, tỉnh Vĩnh Long.

- Bị đơn: Chị Nguyễn TL – sinh năm: 1990(có mặt).

Địa chỉ: ấp TT, xã Trung TT1, huyện VL, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 20/06/2022, trong quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thái Ái Lan trình bày:

Chị nhận hạt điều của công ty rồi giao lại cho chị Nguyễn TL gia công. Chị L nhận hạt điều của chị về để cạo vỏ rồi giao hạt điều lại cho chị. Ngày 24/5/2022 chị L có nhận của chị 40kg hạt điều để về cạo vỏ, hai bên không có ký nhận cũng không có làm hợp đồng. Theo như thỏa thuận thì từ ngày chị L nhận hạt điều đến ngày chị L giao trả hạt điều lại chị là trong vòng 03 ngày. Mỗi kg hạt điều chị sẽ trả tiền gia công cho chị L là 5.000đ/1kg. Do trước đó chị L có nhận gia công của chị 140kg nhưng khi chị kiểm tra lại thì còn 3,6kg hạt điều thì chị L chưa cạo vỏ xong nên chiều ngày 24/5/2022 chị điện thoại cho chị L chị yêu cầu chị L lên nhận lại 3,6kg hạt điều về làm lại thì chị sẽ trả tiền gia công 140kg hạt điều cho chị L là 700.000đồng nhưng chị L không đồng ý đồng thời chị L nói với chị là chị L không nhận gia công hạt điền cho chị nhưng chị L không đồng ý. Do chị L không giao trả lại 40 kg hạt điều lại cho chị nên chị phải bồi thường cho công ty 40 kg hạt điều, mỗi ký là 200.000 đồng, tổng cộng chị phải bồi thường cho công ty là 8.000.000 đồng.

Nay chị yêu cầu chị L phải trả lại cho chị 40kg hạt điều,mỗi kg hạt điều thành tiền là 200.000đ thành tiền là 8.000.000đ.

Chị L khởi kiện yêu cầu chị phải trả lại cho chị L số tiền 7.000.000đ mà chị L đã nhận gia công của chị 140k hạt điều thì chị đồng ý.

Chị rút lại yêu cầu chị L phải trả lại chị 3,6 kg hạt điều mà chị L nhận gia công nhưng chưa làm mỗi kg hạt điều thành tiền là 200.000đ thì 3,6kg thành tiền là 720.000đ.

*Tại đơn khởi kiện phản tố ngày 28/7/2022 trong quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa bị đơn chị Nguyễn TL trình bày:

Chị có nhận hàng gia công hạt điều của chị Nguyễn Thái AL. Ngày 24/5/2022 chị có nhận gia công cạo vỏ hạt điều của chị L2, chị nhận của chị L2 40kg hạt điều hai bên không có ký nhận cũng không có làm hợp đồng. Hai bên thỏa thuận miệng là khi nào chị làm xong được bao nhiêu hạt điều thì chị sẽ giao cho chị L2 bấy nhiêu ngoài ra hai bên không có thỏa thuận rõ số ngày giao hạt điều là bao nhiêu. Hai bên thỏa thuận là sau khi chị cạo vỏ hạt điều xong thì chị L2 trả cho chị là 5.000đ/1kg hạt điều.

Do trước đó chị có nhận gia công của chị L2 140kg hạt điều chị đã gia công xong và đã giao hạt điều cho chị L2. Đối với 140kg hạt điều mà chị đã giao cho chị L2 thì chị L2 chưa trả tiền gia công cho chị là 700.000đ. Sau đó chị L2 nói với chị là trong 90 kg hạt điều chị đã giao cho chị L2 có 3,6 kg hạt điều do chị trộn vỏ nhưng chị không đồng ý.

Số hạt điều 40kg mà chị nhận gia công của chị L2 thì chị thừa nhận hiện nay chị còn giữ do trước đó chị đã gia công cho chị L2 140kg hạt điều thành tiền là 700.000đ nhưng chị L2 chưa trả tiền gia công cho chị. Do chị L2 chưa trả số tiền 700.000đ cho chị nên chị có thông báo qua tin nhắn cho chị L2 là chị ngưng nhận gia công hạt của chị L2 và chị sẽ chở hàng lên trả 40kg hạt điều cho chị L2 nhưng chị L2 không trả lời tin nhắn cho chị và cũng không nghe điện thoại của chị nên chị giữ lại 40kg hạt điều để chị L trả 700.000đ tiền gia công hạt điều của chị.

Nay chị L2 yêu cầu chị phải trả lại cho chị L2 số tiền 40kg hạt điều, mỗi kg hạt điều thành tiền là 200.000đ thì 40kg thành tiền là 8.000.000đ thì chị không đồng ý mà chị đồng ý trả lại cho chị L2 40kg hạt điều hiện nay chị đang giữ và yêu cầu chị L2 phải trả lại chị số tiền 700.000đ mà chị đã gia công 140kg hạt điều cho chị L2.

Chị L2 rút lại yêu cầu khởi kiện đối với 3,6kg hạt điều mà chị nhận gia công nhưng chưa làm mỗi kg thành tiền là 200.000đ, thì 3,6kg thành tiền là 720.000đ thì chị đồng ý, chị không có ý kiến.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 136/2022/DS-ST ngày 22 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện VL, tỉnh Vĩnh Long đã quyết định:

Căn cứ Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 542, 544,545,546,547,549,551,552 của Bộ luật dân sự; khoản 4 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu của chị Nguyễn Thái AL.

Buộc chị Nguyễn TL có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho chị Nguyễn Thái AL số tiền là 6.400.000đ.

Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận của chị Nguyễn TL và chị Nguyễn Thái AL về việc chị Nguyễn TL yêu cầu chị Nguyễn Thái AL phải có nghĩa vụ trả lại cho chị Nguyễn TL số tiền gia công của 140kg hạt điều là 700.000đ. Nên buộc chị Nguyễn Thái AL có nghĩa vụ trả lại cho chị Nguyễn TL số tiền 700.000đ.

Đình chỉ đối với yêu cầu của chị Nguyễn Thái AL về việc yêu cầu chị Nguyễn TL phải bồi thường cho chị Nguyễn Thái AL 3,6kg hạt điều thành tiền là 720.000đ.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của nguời được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự theo luật định.

Ngày 06 tháng 12 năm 2022, bị đơn chị Nguyễn TL có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm với nội dung:

Yêu cầu Không đồng ý trả cho chị L2 số tiền 6.400.000 đồng Tại phiên tòa hôm nay:Chị L giữ nguyên yêu cầu kháng cáo Chị L2 trình bày: Không đồng ý yêu cầu kháng cáo của chị L, tại phiên tòa hôm nay chị bớt cho chị L 400.000 đồng và yêu cầu chị L trả cho chị 6.000.000 đồng.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và người tham gia tố tụng: Tất cả đều tuân thủ đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử phúc thẩm.

Về nội dung: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của chị L, chấp nhận yêu cầu của chị L2 buộc chị L trả cho chị L2 số tiền 6.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ được thể hiện tại hồ sơ được thẩm tra tại phiên tòa; Trên cơ sở xem xét toàn diện các chứng cứ; ý kiến trình bày của các đương sự; Căn cứ vào kết quả tranh luận và phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng đơn kháng cáo của chị Nguyễn TL còn trong hạn luật định theo quy định tại điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Vào ngày 24/5/2022 chị L2 và chị L có hợp đồng gia công nội dung chị L2 giao 40kg hạt điều cho chị L để chị L cạo vỏ hạt điều, với giá 5000 đ/1kg tiền công thực hiện hợp đồng chị L nhận đủ 40kg, tại phiên tòa chị L thừa nhận có nhận của chị L2 40kg hạt điều nên không cần phải chứng minh theo quy định tại điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự.

Chị L cho rằng sau khi nhận cạo vỏ hạt điều chị có giao lại cho chị L2 40kg nhưng chị L2 không nhận do chị L2 còn nợ tiền công của chị L số tiền 700.000 đồng. Tại phiên tòa chị L trình bày số hạt điều chị còn giữ 40kg chưa cạo vỏ yêu cầu chị L2 nhận lại, chị L2 cho rằng chị L không giao hạt điều cho chị nên chị phải xuất tiền ra bồi thường cho chủ cơ sở số tiền 8.000.000 đồng thể hiện tin nhắn chị L gửi chị L2 “Chị giao đủ tiền, thì em giao hàng này còn không thì thôi”, thể hiện lời trình bày và tin nhắn, chị L vi phạm nghĩa vụ cấp sơ thẩm xử buộc chị L trả cho chị L2 số tiền hạt điều 6.400.000 đồng là có căn cứ, đúng pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm chị L2 bớt cho chị L 400.000 đồng chị L2 yêu cầu chị L trả số tiền 6.000.000 đồng là có lợi cho chị L nên chấp nhận yêu cầu của chị L2 và đề nghị của kiểm sát viên, sửa một phần bản án sơ thẩm.

Án phí dân sự phúc thẩm: Do sửa án sơ thẩm nên chị L không phải nộp.

Những quyết định khác của bản án sơ thẩm về đình chỉ, án phí không bị kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không giải quyết, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bởi các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2, điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, sửa án sơ thẩm.

Căn cứ Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 542, 544,545,546,547,549,551,552 của Bộ luật dân sự; khoản 4 Điều 26 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Buộc chị Nguyễn TL có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho chị Nguyễn Thái AL số tiền là 6.000.000đ.(sáu triệu đồng) Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận của chị Nguyễn TL và chị Nguyễn Thái AL về việc chị Nguyễn TL yêu cầu chị Nguyễn Thái AL phải có nghĩa vụ trả lại cho chị Nguyễn TL số tiền gia công của 140kg hạt điều là 700.000đ. Nên buộc chị Nguyễn Thái AL có nghĩa vụ trả lại cho chị Nguyễn TL số tiền 700.000đ.(bảy trăm nghìn đồng) Án phí dân sự phúc thẩm: Hoàn trả chị Nguyễn TL số tiền 300.000 đồng theo lai số 0008981 ngày 09 tháng 12 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện VL.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi chậm trả của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm đình chỉ, án phí không có kháng cáo, kháng nghị.Hội đồng xét xử không giải quyết, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải chịu thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, được quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7,7a,7b và 9 Luật Thi hành án; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 24/2023/DS-PT về tranh chấp hợp đồng gia công

Số hiệu:24/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Vĩnh Long
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;