Bản án về tranh chấp hợp đồng gia công số 100/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 100/2022/DS-ST NGÀY 12/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GIA CÔNG

Ngày 12 tháng 8 năm 2022, tại Hội trường Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 17/2022/TLST-DS ngày 18 tháng 02 năm 2022 về việc “Tranh chấp Hợp đồng gia công” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2022/QĐXXST-DS ngày 27 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

+ Nguyên đơn: Ông Huỳnh Chí L

Sinh năm: 1977 (có mặt) Địa chỉ: Thôn Đ, xã Điện T, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

+ Bị đơn: Ông Trần Trọng T 

Sinh năm 1973 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Đ, xã Điện T, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Đức S, sinh năm: 1980

Địa chỉ: Đội 12, thôn M, xã Duy P, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 10/02/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn, ông Huỳnh Chí L trình bày:

Trong năm 2021, ông L có nhận gia công công trình nhà xưởng nhà tư tại Đà Nẵng của ông Trần Trọng T về phần nhân công với tổng số tiền là 89.000.000đ (tám mươi chín triệu đồng). Trong quá trình làm việc, ông L có tạm ứng trước của ông Trần Trọng T số tiền là 59.000.000đ, số tiền còn lại là 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng) ông H chưa trả cho ông, ông L đã nhiều lần yêu cầu ông H trả tiền nhưng ông H không chịu trả. Nay ông L yêu cầu Tòa án buộc ông Trần Trọng T phải trả cho ông số tiền là 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng).

Ngoài ra, ông L không có ý kiến và trình bày gì thêm.

+ Tại bản tự  khai ngày 24/3/2022 và những lời trình bày tiếp theo, bị đơn ông Trần

Trọng T trình bày:

Vào khoảng tháng 4/2021, Công ty TNHH Phúc Gia Sơn do ông Nguyễn Đức S (địa chỉ: đội 12, thôn M, xã Duy P, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam) làm giám đốc có ký hợp đồng với công ty 777 đóng tại Đà Nẵng để thực hiện một số hạng mục công trình xây dựng và sơn nước. Thực hiện hợp đồng với Công ty 777, ông Nguyễn Đức S giám đốc Công ty TNHH Phúc Gia Sơn có đề nghị ông H tìm nhân công để gia công các hạng mục trên, khi đó ông H đang làm việc tại Công ty Phúc Gia Sơn. Ông H là người trực tiếp thuê ông Huỳnh Chí L gia công công trình cho Công ty TNHH Phúc Gia Sơn với tổng số tiền gia công là 89.000.000đ. Trong quá trình gia công, Công ty TNHH Phúc Gia Sơn có chuyển tiền cho ông và ông đã trực tiếp trả cho ông L được số tiền là 44.500.000đ, số tiền còn nợ lại là 44.500.000đ. Sau đó do ông H không còn làm việc tại Công ty TNHH Phúc Gia Sơn nữa nên ông đã có thỏa thuận với ông Nguyễn Đức S giám đốc Công ty TNHH Phúc Gia Sơn về số tiền còn nợ của ông L. Theo đó, ông Nguyễn Đức S có trách nhiệm chi trả cho ông L số tiền còn nợ là 44.500.000đ. Sau khi ông bàn giao công nợ cho ông S, ông S có tiếp tục trả tiền cho ông L không thì ông không được rõ. Do đó, ông H đề nghị Tòa án triệu tập ông Nguyễn Đức S, giám đốc Công ty TNHH Phúc Gia Sơn tham gia tố tụng trong vụ án để ông S có trách nhiệm trả nợ cho ông Huỳnh Chí L.

Nay ông Huỳnh Chí L yêu cầu ông H phải có trách nhiệm trả số tiền còn nợ là 30.000.000đ thì ông H không đồng ý, ông H đã bàn giao công nợ cho ông Nguyễn Đức S, giám đốc Công ty TNHH Phúc Gia Sơn nên ông Nguyễn Đức S phải có trách nhiệm trả tiền cho ông L

Ngoài ra ông H không có ý kiến và trình bày gì thêm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Đức S đã được triệu tập hợp lệ nhưng không đến Tòa án làm việc nên không có lời trình bày.

Đại diện VKSND thị xã Điện Bàn phát biểu quan điểm giải quyết vụ án.

Quá trình Toà án cấp sơ thẩm đã thụ lý, giải quyết, xét xử vụ án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân thủ đúng quy định của BLTTDS. Nguyên đơn chấp hành tốt quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án Viện kiểm sát đề nghị: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông Trần Trọng T phải có trách nhiệm trả cho ông Huỳnh Chí L số tiền còn nợ là 30.000.000đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp hợp đồng gia công giữa nguyên đơn ông Huỳnh Chí L và bị đơn ông Trần Trọng T. Bị đơn cư trú: thôn Đ, xã Điện T, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS.

Bị đơn ông Trần Trọng T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Đức S đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý nên Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 BLTTDS.

[2] Xét yêu cầu của ông Huỳnh Chí L thì thấy:

Nguyên đơn, ông Huỳnh Chí L cho rằng: ông L có nhận công trình làm cơ khí cho ông H tại Đà Nẵng với số tiền tổng cộng 89.000.000đ. Ông H đã trả cho ông L được 59.000.000đ, số tiền còn lại 30.000.000đ ông H chưa trả nên yêu cầu ông H có trách nhiệm trả cho ông.

Bị đơn ông H cho rằng: ông H là người trực tiếp thuê ông L gia công công trình cho Công ty TNHH Phúc Gia Sơn, ông đã trả cho ông L số tiền 44.500.000đ. Do ông không còn làm việc tại Công ty Phúc Gia Sơn nên ông có thỏa thuận với ông S – Giám đốc công ty Phúc Gia Sơn về việc bàn giao số nợ của ông L cho ông S có trách nhiệm trả. Do đó, ông H không còn trách nhiệm trả nợ cho ông L nữa mà ông S có trách nhiệm trả nợ.

HĐXX thấy rằng: việc ông H thừa nhận có thuê ông L gia công công trình với số tiền công tổng cộng là 89.000.000đ, đã trả 44.500.000đ, còn nợ lại 44.500.000đ nhưng ông L chỉ yêu cầu ông H trả lại số tiền 30.000.000đ nên đây là sự thật, tình tiết, sự kiện không cần phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 BLTTDS.

Trong quá trình giải quyết vụ án, ông H cho rằng ông đã bàn giao số nợ của ông L cho ông S có trách nhiệm trả. Tuy nhiên, ông H không có chứng cứ chứng minh cho ý kiến của mình. Đồng thời, ông H là người trực tiếp liên hệ và yêu cầu ông L gia công công trình, việc ông H chuyển giao công nợ cho ông S phải được sự đồng ý của ông L nhưng ông L không đồng ý nên ông H phải có trách nhiệm trả nợ cho ông L. Do đó, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở, HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Chí L đối với ông Trần Trọng T.

Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Nguyên đơn không phải chịu án phí DSST.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng: Điều 26;35; 39 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 542, 552; 468 BLDS; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Chí L đối với ông Trần Trọng T về “Tranh chấp Hợp đồng gia công”

Buộc ông Trần Trọng T có trách nhiệm trả cho ông Huỳnh Chí L số tiền 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng)

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

2. Về án phí: Ông Trần Trọng T phải chịu 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng) tiền án phí DSST. Ông Huỳnh Chí L không phải chịu án phí DSST. Hoàn trả cho ông Huỳnh Chí L số tiền tạm ứng án phí đã nộp 750.000đ (bảy trăm năm mươi nghìn đồng) án phí DSST đã nộp tại Biên lai thu số 0000908 ngày 18/02/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Điện Bàn.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng người vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng gia công số 100/2022/DS-ST

Số hiệu:100/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Điện Bàn - Quảng Nam
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;