TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DI LINH, TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 27/2024/DS-ST NGÀY 17/04/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ THI CÔNG
Ngày 17 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 11/2024/TLST-DS ngày 23 tháng 01 năm 2024 về “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ thi công cổng, cửa, hàng rào” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2024/QĐXXST-DS ngày 18 tháng 3 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 25/2024/QĐST-DS ngày 05 tháng 4 năm 2024 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: ông Vũ Đình M, sinh năm: 1984; nơi cư trú: thôn A, xã H, huyện D, tỉnh Lâm Đồng.
Bị đơn: bà Phạm Thị D, sinh năm: 1980; nơi cư trú: thôn A, xã H, huyện D, tỉnh Lâm Đồng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: bà Nguyễn Thị H, sinh năm: 1986; nơi cư trú: thôn A, xã H, huyện D, tỉnh Lâm Đồng.
Ông M, bà H có mặt, bà D vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông Vũ Đình M trình bày thì: Tháng 8/2020 ông có thi công công trình cho bà Phạm Thị D cụ thể: 10 bộ cửa sắt gồm: 01 bộ cửa chính 04 cánh; 03 bộ của phòng ngủ; 03 bộ cửa sổ; 01 bộ cửa hậu; 01 bộ của hông; 01 bộ cửa cổng và thi công hàng rào xung quanh sân phía đằng trước với giá hai bên thỏa thuận là 54.000.000 đồng. Vào tháng 10/2020 ông thi công xong toàn bộ công trình nói trên cho bà D và bà D đã trả cho ông số tiền thi công là 33.000.000 đồng nên bà D còn nợ lại ông số tiền 21.000.000 đồng. Do bà D chưa có tiền trả cho ông nên bà D có viết “bản cam kết” theo đó bà D cam kết sẽ trả số tiền 21.000.000 đồng còn thiếu vào ngày 30/12/2022 (ngày âm lịch). Tuy nhiên, từ đó cho đến nay, bà D vẫn chưa thực hiện nghĩa vụ trả tiền cho ông.
Do bà D không trả tiền cho ông nên vào ngày 03/12/2022 ông có đến nhà bà D tháo dỡ 02 cánh cửa chính trong số 04 cánh cửa mà trước đó ông đã thi công cho bà D. Sau đó, bà D đã làm lại 04 cánh cửa chính và tháo dỡ hai cánh cửa chính còn lại mà ông đã thi công trước đó. Ông làm 04 cánh cửa chính với giá 7.800.000 đồng, ông dỡ 02 cánh cửa chính nên ảnh hưởng đến bốn cửa chính là bà D nên ông đồng ý trừ số tiền của bốn cánh cửa chính mà ông đã tháo dỡ là 7.800.000 đồng nên bà D còn nợ ông số tiền 13.200.000 đồng.
Nay ông khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Phạm Thị D có trách nhiệm trả cho ông số tiền 13.200.000 đồng.
Theo bản tự khai và lời trình bày của bị đơn bà Phạm Thị D thì: Tháng 8/2020 bà có thuê ông Vũ Đình M thi công công trình nhà ở cho bà cụ thể: 10 bộ cửa sắt gồm: 01 bộ cửa chính 04 cánh; 03 bộ của phòng ngủ; 03 bộ cửa sổ; 01 bộ cửa hậu; 01 bộ của hông; 01 bộ cửa cổng và thi công hàng rào xung quanh sân phía đằng trước với giá bao nhiêu tiền thì bà không nhớ.
Vào tháng 10/2020 ông M thi công xong các công trình nói trên cho bà và bà đã trả cho ông M một số tiền, số tiền còn lại là 21.000.000 đồng thì do bà chưa có tiền trả nên bà có viết “bản cam kết”, theo đó bà còn nợ vợ chồng ông M, bà H số tiền 21.000.000 đồng và hẹn đến ngày 30/12/2022 (ngày âm lịch) sẽ trả. Chữ viết, chữ ký trong “bản cam kết” mà nguyên đơn nộp cho Tòa án là chữ viết, chữ ký, ghi họ tên của bà. Lý do bà chưa trả cho ông M vì chưa đến hạn trả tiền như bản cam kết thì ông M đến nhà tôi tháo dỡ hai cánh cửa chính trong số bốn cánh cửa chính và vợ chồng ông M, bà H đăng lên mạng xã hội Facebook nói xấu bà. Sau đó bà chờ đến khoảng 03 tháng để ông M đến lắp lại hai cánh cửa cho bà nhưng ông M không đến lắp lại hai cánh cửa nên bà phải thuê thợ sắt khác đến làm lại 04 cánh cửa mới cho bà với số tiền là 10.000.000 đồng. Còn hai cánh cửa chính mà ông M làm cho bà thì bà để ở góc sân nhà.
Nay ông M khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà phải trả số tiền thi công là 13.200.000 đồng thì bà không đồng ý. Bà chỉ đồng ý trả cho ông M số tiền 11.000.000 đồng vì bà làm bốn cửa chính mới với số tiền 10.000.000 đồng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị H trình bày: Chồng bà là ông M có thi công công trình cho bà D như lời ông M trình bày là đúng.
Nay ông M khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Phạm Thị D có trách nhiệm trả cho ông M số tiền 13.200.000 đồng thì bà thống nhất với ý kiến của chồng bà là ông M.
Ngày 05/4/2024, ông M trình bày trong bản tự khai theo đó, ông M đồng ý trừ số tiền làm bốn cánh cửa chính là 10.000.000 đồng nhu lời trình bày của bà D; ông chỉ yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Phạm Thị D có trách nhiệm trả số tiền thi công cửa, cổng, hàng rào với số tiền còn lại là 11.000.000 đồng.
Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện, ông M đồng ý trừ số tiền làm bốn cánh cửa chính nhà bà D với số tiền là 10.000.000 đồng; chỉ yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Phạm Thị D có trách nhiệm trả số tiền thi công cửa, cổng, hàng rào với số tiền còn lại là 11.000.000 đồng; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà H thống nhất với yêu cầu của nguyên đơn ông M; bị đơn bà D vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng phát biểu quan điểm tại phiên tòa:
Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý vụ án cũng như giải quyết vụ án, thì Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng. Nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn bà D vắng mặt lần thứ hai không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bà D theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông M. Buộc bà Phạm Thị D có trách nhiệm trả cho ông Vũ Đình M số tiền thi công cổng, cửa, hàng rào còn lại là 11.000.000 đồng.
Về án phí: Buộc bà D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền phải thanh toán; hoàn trả cho ông M số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Xuất phát từ yêu cầu khởi kiện của ông M yêu cầu bà D thanh toán tiền thi công công trình nên xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ thi công cổng, cửa, hàng rào” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng.
[2] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ, bị đơn bà D vắng mặt lần thứ hai không có lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà D theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Về nội dung tranh chấp:
Ông M yêu cầu bà D trả số tiền dịch vụ thi công cổng, cửa, hàng rào với số tiền là 11.000.000 đồng thì thấy rằng: trong khoảng thời gian từ tháng 8/2020 đến tháng 10/2020, ông M thi công 10 bộ cửa sắt gồm: 01 bộ cửa chính 04 cánh; 03 bộ của phòng ngủ; 03 bộ cửa sổ; 01 bộ cửa hậu; 01 bộ của hông; 01 bộ cửa cổng và thi công hàng rào xung quanh sân phía đằng trước cho bà D. Theo ông M trình bày thì ông thi công toàn bộ công trình nói trên với giá 54.000.000 đồng, sau đó bà D đã thanh toán cho ông M số tiền 33.000.000 đồng nên còn nợ lại số tiền 21.000.000 đồng; bà D thừa nhận có thuê ông M thi công các công trình nói trên, giá tiền thuê bao nhiêu và đã trả bao nhiêu thì bà không nhớ nhưng bà thừa nhận còn nợ lại ông M số tiền thi công các công trình nói trên với số tiền là 21.000.000 đồng nhưng do chưa có tiền trả cho ông M nên bà D viết “bản cam kết”, theo đó bà D cam kết sẽ trả số tiền 21.000.000 đồng vào ngày 30/12/2022 (âm lịch) nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
Trong quá trình giải quyết vụ án, ông M thừa nhận khi bà D không thực hiện nghĩa vụ trả số tiền thi công còn thiếu là 21.000.000 đồng cho ông M thì ông M đến nhà bà D tháo dỡ 02 cảnh cửa chính trong số bốn cảnh cửa chính mà ông M đã thi công cho bà D trước đó dẫn đến việc bà D không sử dụng được cửa chính nên ông đồng ý trừ số tiền làm bốn cánh cửa chính với số tiền 7.800.000 đồng nên yêu cầu bà D phải trả số tiền thi công cổng, cửa, hàng rào với số tiền còn lại là 13.200.000 đồng.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bà D thừa nhận còn nợ ông M số tiền 21.000.000 đồng theo “bản cam kết” mà bà đã viết với ông M. Tuy nhiên, khi chưa đến hạn trả nợ, ông M đã đến nhà tháo dỡ hai cánh cửa chính trong số bốn cảnh cửa chính mà ông M đã thi công cho bà trước nên bà D không sử dụng được cửa nữa mà phải thuê người khác làm lại bốn cánh cửa chính với số tiền là 10.000.000 đồng nên chỉ đồng ý trả cho ông M số tiền thi công còn lại là 11.000.000 đồng.
Ông M trình bày hợp đồng thi công các công trình cổng, cửa, hàng rào cho bà D chỉ có một bản và do bà D giữ nên ông M không cung cấp được cho Tòa án; bà D lại không thừa nhận đang giữ hợp đồng thi công này. Tuy nhiên vào ngày 05/4/2024, ông M trình bày trong bản tự khai theo đó, ông M đồng ý trừ số tiền làm bốn cánh cửa chính là 10.000.000 đồng như lời trình bày của bà D và tại phiên tòa hôm nay, ông M đồng ý trừ số tiền làm bốn cánh cửa chính là 10.000.000 đồng cho bà D, chỉ yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Phạm Thị D có trách nhiệm trả số tiền thi công cửa, cổng, hàng rào với số tiền còn lại là 11.000.000 đồng, số tiền này các bên đều thống nhất, bà D cũng đồng ý trả cho ông M số tiền 11.000.000 đồng nên yêu cầu khởi kiện của ông M là có cơ sở chấp nhận.
[4] Về án phí: Do yêu cầu được chấp nhận nên ông M không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho ông M số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã tạm nộp; buộc bà D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền phải thanh toán.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Điều 147, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự;
- Căn cứ các Điều 513, 515, 519 của Bộ luật Dân sự;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Vũ Đình M về việc “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ thi công cổng, cửa, hàng rào” đối với bà Phạm Thị D, xử:
1. Buộc bà Phạm Thị D có trách nhiệm trả cho ông Vũ Đình M số tiền 11.000.000 (mười một triệu) đồng.
Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án đối với số tiền phải thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bà D còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất theo quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.
2. Về án phí:
Buộc bà Phạm Thị D phải chịu 550.000 (năm trăm năm mươi nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả cho ông Vũ Đình M số tiền 525.000 (năm trăm hai mươi lăm nghìn) đồng tạm ứng án phí dân sơ thẩm mà ông M đã nộp theo biên lai thu số 0005562 ngày 23/01/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng.
3. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, ông M, bà H được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng để yêu cầu xét xử phúc thẩm; Riêng bà D vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 27/2024/DS-ST về tranh chấp hợp đồng dịch vụ thi công
Số hiệu: | 27/2024/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Di Linh - Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 17/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về