Bản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 628/2020/KDTM-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 628/2020/KDTM-PT NGÀY 03/07/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ

Vào ngày 03 tháng 7 năm 2020 tại Tòa án nhân dân Thành phố H xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 67/2020/TLPT-KDTM ngày 17 tháng 02 năm 2020 về tranh chấp Hợp đồng dịch vụ.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 237/2019/KDTM-ST ngày 22 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân Quận 1 bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2430/2020/QĐ-PT ngày 12 tháng 5 năm 2020 và Quyết định Hoãn phiên tòa số 5152 /2020/QĐ-PT ngày 4 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Công ty TNHH H Địa chỉ: Số 12 Phố Y, phường Đ, quận B, Thành phố Hà Nội.

Ngưi đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Tô Quốc B, sinh năm 1996 (có mặt).

Là người đại diện theo ủy quyền (Giấy ủy quyền số 01/19 ngày 15/7/2019 và Giấy ủy quyền số 07/19 ngày 15/7/2019).

2. Bị đơn: Công ty Cổ phần X Địa chỉ: Số 25X đường L, phường P, Quận M, TP.H Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Ngô Quốc V, sinh năm 1983 (có mặt). Là người đại diện theo ủy quyền (Giấy ủy quyền số ngày 23/9/2019) Người kháng cáo: Công ty TNHH H ( Các đương sự có mặt tại tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện gửi đến Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố H ngày 25/7/2019, bản tự khai và lời trình bày tại phiên tòa, nguyên đơn Công ty TNHH H do ông Tô Quốc B là người đại diện theo ủy quyền trình bày:

Ngày 15/7/2016, Chi nhánh Công ty TNHH H ký Hợp đồng dịch vụ vận tải hàng hóa số 28/2016/VT-HĐ (Hợp đồng số 28) với Chi Nhánh Công ty Cổ phần X – Xí nghiệp Dịch Vụ vận tải Hỏa Xa Sài Gòn. Theo đó, ngày 17/01/2017, Chi Nhánh Công ty Cổ phần X – Xí nghiệp Dịch Vụ vận tải Hỏa Xa Sài Gòn đã thực hiện vận chuyển cho Chi nhánh Công ty TNHH H 173 kiện hàng là 1.788 chai rượu vang ngoại nhập từ Thành phố H đi Thành phố Hà Nội.

Khi đến Thành phố Hà Nội, các bên phát hiện hàng hóa bị hư hỏng (bể, trầy tem) do quá trình vận chuyển gây ra. Trong đó có 1.417 chai rượu bị bể và trầy tem, không thể bán ra thị trường. Toàn bộ thiệt hại tính theo giá trị trên Hóa đơn đi đường là 159.299.800 đồng (Một trăm năm mươi chín triệu hai trăm chín mươi chín nghìn tám trăm đồng). Đại diện các bên lập Biên bản làm việc lúc 14h ngày 23/01/2017 để chuyển đến người có thẩm quyền giải quyết.

Sau khi sự việc xảy ra, đại diện phía Công ty Cổ phần X (Công ty X) đã làm việc với Chi nhánh Công ty TNHH H để giải quyết các yêu cầu bồi thường do quá trình vận chuyển làm hư hỏng hàng hóa. Trên cơ sở thiện chí, thương lượng để cùng nhau giải quyết thiệt hại, các bên đã gởi Công văn qua lại để đưa ra phương án bồi thường. Với tinh thần hợp tác nhanh chóng giải quyết dứt điểm thiệt hại, ngày 13 tháng 04 năm 2017, Công ty H có gửi Văn bản số 05 đồng ý mức bồi thường mà Công ty X đã thông báo theo Công văn 08/CV- HX2017 trước đó, kèm theo bảng chi tiết số lượng lấy về, chi tiết số tiền đã tính theo tỷ lệ, yêu cầu Công ty X giải quyết trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản, tổng cộng: 1.417 chai bị bể và trầy tem các loại, giá trị tổn thất thương lượng thiện chí giải quyết là 120.736.935 đồng, Công ty H không nhận được phản hồi của Công ty X.

Đến ngày 02/10/2018, Công ty X chỉ bồi thường cho Công ty H số tiền là 80.000.000 đồng (Tám mươi triệu đồng). Từ đó đến nay Công ty X vẫn chưa bồi thường số tiền còn lại. Vì vậy, Công ty TNHH H yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết: Buộc Công ty Cổ phần X phải bồi thường toàn bộ thiệt hại còn lại giá trị của 1.417 chai rượu vang cho Chi nhánh Công ty TNHH H theo Hóa đơn đi đường là 79.299.800 đồng (Bảy mươi chín triệu hai trăm chín mươi chín nghìn tám trăm đồng), trả một lần ngay sau khi Bản án có hiệu lực pháp luật.

Bị đơn - Công ty Cổ phần X do ông Ngô Quốc V là người đại diện theo ủy quyền trình bày:

Xác nhận Chi nhánh Công ty TNHH X và Chi nhánh Công ty Công ty TNHH H ký hợp đồng vận chuyển số 28/2016 ngày 15/7/2016 để vận chuyển rượu vang của Công ty H từ Hà Nội vào TP.H, trong quá trình vận chuyển, một lượng hàng hoá bị vỡ hoặc thấm nhoà nhãn mác.

Ngày 12/4/2018 phía Công ty TNHH H đã khởi kiện Công ty Cổ phần X về tranh chấp hợp đồng vận chuyển số 28/2016 tại Toà án nhân dân Quận 3, Tp.H và được Toà án nhân dân Quận 3, Tp.H thụ lý, giải quyết. Trong quá trình tòa án Quận 3 giải quyết, phía Công ty TNHH H không đưa ra được chứng từ hợp pháp đối với lô hàng bị tổn thất nên Thẩm phán đã vận động các bên tự thương lượng, hoà giải. Theo đó mỗi bên chịu 50% giá trị thiệt hại, Hợp đồng số 28/2016 được thanh lý. Chúng tôi bồi thường đủ số tiền trên và nguyên đơn rút đơn khởi kiện, phía Công ty TNHH H xác nhận mọi việc đã giải quyết xong.

Ngày 02/10/2018, đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn là ông Trần Anh D đã lập Biên bản nhận tiền. Theo đó, Công ty TNHH X phải bồi thường 80.000.000 đồng. Cấn trừ công nợ giữa các bên, Công ty TNHH X còn phải bồi thường cho phía nguyên đơn 62.950.000 đồng. Cùng ngày 02/11/2018, Công ty TNHH X đã nộp đủ số tiền trên vào tài khoản của ông Trần Anh D như thoả thuận theo chứng từ giao dịch tại Vietcombank. Ông D đã rút đơn khởi kiện tại Toà án nhân dân Quận 3, Tp.H và vụ án đã được đình chỉ giải quyết. Giữa Công ty TNHH X và Công ty TNHH H không có bất cứ Hợp đồng dịch vụ vận tải nào khác.

Tranh chấp giữa hai bên theo hợp đồng số 28/2016 ngày 15/7/2016 đã được giải quyết xong tại Toà án nhân dân Quận 3, Tp.H, do đó nguyên đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đối với hợp đồng số 28/2016 ngày 15/7/2016 tại Toà án nhân dân Quận 1, Tp.H là không có cơ sở.

Với nội dung trên, Tại Bản án sơ thẩm số 237/2019/KDTM-ST ngày 22 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố H đã quyết định:

Căn cứ vào khoản 1, Điều 30; điểm b, khoản 1, Điều 35; điểm a, khoản 1 Điều 39; Điều 203; Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Căn cứ vào khoản 1 và khoản 2 Điều 422 Bộ luật dân sự 2015;

Căn cứ vào Điều 2; Điều 6; Điều 7; Điều 9; Điều 26 và Điều 30 của Luật Thi hành án Dân sự;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn - Công ty TNHH H về việc yêu cầu Tòa án Buộc Công ty Cổ phần X phải bồi thường phần thiệt hại còn lại theo hợp đồng dịch vụ vận tải hàng hóa số 28/2016/VT-HĐ ngày 15/7/2016 là 79.299.800 đồng.

2. Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:

Công ty TNHH H phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là 3.964.990 đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm đã nộp là 3.000.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2018/0007989 ngày 14 tháng 8 năm 2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự Quận 1, Thành phố H, Công ty TNHH H phải nộp thêm 964.990 đồng.

Ngoài ra, tòa án cấp sơ thẩm còn thông báo quyền kháng cáo, quyền thi hành án cho các bên đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 06 tháng 12 năm 2019, nguyên đơn - Công ty TNHH H có đơn kháng cáo với nội dung kháng cáo toàn bộ bản án số 237/2019/KDTM-ST ngày 22/11/2019 của Tòa án nhân dân Quận 1, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Nguyên đơn - Công ty TNHH H trình bày: Tòa án cấp sơ thẩm không đánh giá đúng sự thật khách quan của các chứng cứ trong hồ sơ nên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không đúng, đề nghị cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày: Kháng cáo của nguyên đơn là không có cơ sở. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H phát biểu: Việc Tòa án nhân dân Thành phố H thụ lý và giải quyết vụ án là đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đều tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Kháng cáo của nguyên đơn là không có cơ sở, nên đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; sau khi nghe các đương sự trình bày, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Tại phiên tòa hôm nay các bên không tự hòa giải với nhau được về việc giải quyết vụ án, nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, người kháng cáo không rút đơn kháng cáo nên Hội đồng xét xử tiến hành giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.

[1] Xét quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các bên là tranh chấp hợp đồng dịch vụ, bị đơn có trụ sở tại Quận 1 Thành phố H. Tòa án nhân dân Quận 1 xét xử sơ thẩm là đúng quy định về thẩm quyền giải quyết theo qui định tại Khoản 1 Điều 30, Điểm b Khoản 1 Điều 35 và Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Kháng cáo của nguyên đơn – Công ty TNHH H là hợp lệ, nên Tòa kinh tế Tòa án nhân dân Thành phố H giải quyết theo trình tự phúc thẩm là phù hợp qui định tại Điểm b Khoản 3 Điều 38 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015.

[2] Xét kháng cáo của nguyên đơn - Công ty TNHH H nhận thấy: Để thực hiện hợp đồng dịch vụ vận tải hàng hóa số 28/2016/VT-HĐ ngày 15/7/2016, ngày 17/01/2017 Xí nghiệp Dịch Vụ vận tải Hỏa Xa Sài Gòn thực hiện vận chuyển từ Thành phố H đi Hà Nội cho Chi nhánh Công ty TNHH H 173 kiện hàng là 1.788 chai rượu vang ngoại nhập. Khi nhận hàng các bên phát hiện hàng hóa bị hư hỏng (bể, trầy tem) do quá trình vận chuyển gây ra. Trong đó có 1.417 chai rượu bị bể và trầy tem. Do không thỏa thuận được về việc bồi thường nên Công ty TNHH H có đơn khởi kiện ngày 12/4/2018 gửi Tòa án nhân dân Quận 3 yêu cầu Công ty Cổ phần X bồi thường số tiền thiệt hại của 1.417 chai rượu là 159.299.800 đồng và tiền lãi do chậm thanh toán. Tại tòa các đương sự đều thừa nhận trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án nhân dân Quận 3, ông Trần Anh D – là đại diện theo ủy quyền của Công ty TNHH H đã viết giấy “Biên nhận tiền” ngày 02/10/2018 với nội dung: “Trong vụ kiện tranh chấp Hợp đồng vận chuyển tại Tòa án nhân dân Quận 3, các bên thỏa thuận giải quyết vụ án và tôi đồng ý với Công ty Cổ phần X mức bồi thường của Hợp đồng là 80.000.000 đồng (theo Hợp đồng vận tải hàng hóa số 28/2016), tôi đã nhận đủ số tiền trên. Tôi sẽ rút đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân Quận 3 và mọi việc đã giải quyết xong”. Nguyên đơn thừa nhận đã nhận đủ số tiền theo thỏa thuận và ngày 09/10/2018 Tòa án nhân dân Quận 3 đã ban hành Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án với lý do Nguyên đơn - Công ty TNHH H rút đơn khởi kiện. Sau khi trừ đi số tiền đã nhận nguyên đơn Công ty TNHH H làm đơn khởi kiện lại yêu cầu Tòa án buộc Công ty Cổ phần X phải bồi thường phần thiệt hại còn lại theo hợp đồng dịch vụ vận tải hàng hóa số 28/2016/VT-HĐ ngày 15/7/2016 là 79.299.800 đồng trên tổng thiệt hại là 159.299.800 đồng (trừ đi 80.000.000 đồng đã nhận theo “Biên nhận tiền” ngày 02/10/2018).

Xét việc tòa án cấp sơ thẩm thụ lý giải quyết vụ án khi nguyên đơn khởi kiện lại vụ án nêu trên là phù hợp qui định tại Khoản 1 Điều 218 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định: “Biên nhận tiền” ngày 02/10/2018 xác nhận Công ty TNHH H đồng ý với mức bồi thường của Hợp đồng 28/2016/VT-HĐ ngày 15/7/2016 là 80.000.000 đồng, phía Công ty TNHH H đã nhận đủ tiền và ghi nhận mọi việc đã giải quyết xong. Nguyên đơn cho rằng thỏa thuận theo giấy “Biên nhận tiền” ngày 02/10/2018 chưa phải là thỏa thuận cuối cùng của các bên, Hợp đồng 28/2016/VT-HĐ ngày 15/7/2016 chưa được giải quyết xong nhưng không xuất trình được tài liệu chứng cứ nào thể hiện các bên có thỏa thuận khác. Khi thỏa thuận giải quyết tranh chấp, Công ty TNHH H đã đưa ra quyết định và thỏa thuận giải quyết, cam kết mọi việc đã được giải quyết xong, việc thỏa thuận trên tinh thần tự nguyện, không bị ép buộc nên việc Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH H về việc buộc Công ty Cổ phần X bồi thường thiệt hại số tiền 79.299.800 đồng theo hợp đồng dịch vụ vận tải hàng hóa số 28/2016/VT-HĐ ngày 15/7/2016 là phù hợp với thỏa thuận của các bên và phù hợp với qui định của pháp luật. Việc thỏa thuận của các bên về việc bồi thường là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật nên các bên phải chịu trách nhiệm với thỏa thuận của mình và có giá trị ràng buộc đối với các bên và việc bồi thường xem như đã được thực hiện xong, nay nguyên đơn lại tiếp tục khởi kiện là không có cơ sở chấp nhận.

Tại phiên tòa phúc thẩm người kháng cáo cũng không xuất trình thêm được chứng cứ nào để chứng minh có thỏa thuận khác về việc bồi thường do đó không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn.

[3] Do kháng cáo không được chấp nhận nên người kháng cáo phải chịu án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm theo quy định tại Khoản 1 Điều 34 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên.

Căn cứ Khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự.

QUYẾT ĐỊNH

Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn - Công ty TNHH H. Giữ nguyên các quyết định của bản án sơ thẩm số 237/2019/KDTM-ST ngày 22/11/2019 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố H.

- Áp dụng khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147, Điều 266, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Áp dụng khoản 1 và khoản 2 Điều 422 Bộ luật dân sự 2015;

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn - Công ty TNHH H về việc buộc Công ty Cổ phần X bồi thường thiệt hại số tiền 79.299.800 đồng theo hợp đồng dịch vụ vận tải hàng hóa số 28/2016/VT-HĐ ngày 15/7/2016.

2. Về án phí:

- Công ty TNHH H phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là 3.964.990 đồng. Được cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm đã nộp là 3.000.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2018/0007989 ngày 14 tháng 8 năm 2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự Quận 1, Thành phố H, Công ty TNHH H còn phải nộp thêm 964.990 đồng.

- Công ty TNHH H phải chịu án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm là 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng). Được cấn trừ vào số tiền 2.000.000 đồng đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0005507 ngày 12/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận 1, Thành phố H).

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 628/2020/KDTM-PT

Số hiệu:628/2020/KDTM-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 03/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;