TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 53/2017/KDTM-ST NGÀY 18/07/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ
Ngày 18/7/2017, Tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 10/2017/TLST-KDTM ngày 07 tháng 02 năm 2017, về việc “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ” theo quyết định đưa vụ án dân sự ra xét xử số 133/2017/QĐXXST-KDTM ngày 01 tháng 6 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 77/2017/QĐST-KDTM ngày 23/6/2017 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Lưu Khánh V – Chủ quán cà phê – bida TC;
Địa chỉ: Số 331-333 Vành Đai Trong, phường Bình Trị Đ B, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh. Có ông Vũ Văn Đ, sinh năm 1988 – đại diện ủy quyền theo giấy ủy quyền lập ngày 11/01/2017 có công chứng số 000559, quyển số 01TP/CC-SCC/HĐGD ngày 11/01/2017 của Văn phòng công chứng Châu Á, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt).
Bị đơn: Công ty TNHH DV Bảo Vệ TT;
Địa chỉ: Số 1073/1G Cách Mạng Tháng Tám, P7, quận TB, TP.Hồ Chí Minh.
Địa chỉ mới: Số 7/14/1A6 đường 182, khu phố 3, phường Tăng Nhơn P A, Q 9, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện theo pháp luật: Có bà Ngô Thị Châu H – chức vụ: giám đốc. (Vắng mặt).
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Châu Văn B , sinh năm 1986.
Địa chỉ: Số 827/12/14 Tỉnh lộ 10, phường Bình Trị Đ B, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và bản tự khai của ông Lưu Khánh V – chủ quán cà phê – bida TC (gọi tắt là ông V ), có ông Vũ Văn Đ đại diện ủy quyền, trình bày: Ngày 13/04/2015, ông Lưu Khánh V - chủ hộ kinh doanh TC (theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hộ kinh doanh cá thể số: 41W8026285 ngày 02/02/2010) có ký kết Hợp đồng thuê dịch vụ bảo vệ số: 0102/HĐDV2015 với công ty TNHH dịch vụ bảo vệ TT (gọi tắt là công ty TT). Theo hợp đồng dịch vụ bảo vệ này, công ty TT có trách nhiệm trông coi, kiểm soát toàn bộ xe, giữ xe cho khách và nhân viên tại Hộ kinh doanh TC.
Vào lúc 20 giờ 20 phút ngày 25/04/2015, ông Châu Văn B là khách hàng đến uống cà phê tại quán cà phê – bida TC có địa chỉ số 331-333 Vành Đai Trong, phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân,Thành phố Hồ Chí Minh. Ông B gửi cho quán trông coi chiếc xe nhãn hiệu Honda, số loại AIR BLADE, biển số 59N1– 81966, số máy F46E – 2026597, số khung 16EY – 018733 thì xảy ra việc mất xe.
Khi xảy ra vụ việc, nhân viên TC đã báo lại cho ông V , ông V liên hệ với ông Phạm Văn T - đại diện công ty TT để làm việc. Sau đó, ông T xuống làm việc với ông B ngay trong ngày mất xe, xác nhận việc mất xe là do nhân viên Nguyễn Văn T của công ty lấy mất, đồng thời cũng xác nhận sẽ chịu trách nhiệm bồi thường cho ông B (thể hiện trong Bản tường trình ngày 25/4/2015 do ông Phạm Văn T khai có xác nhận của công ty TT). Đồng thời, ông V cũng đồng ý hỗ trợ 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) cho công ty TT để bồi thường cho ông B .
Tuy nhiên, công ty TT đã cố tình không thực hiện đúng cam kết là bồi thường chiếc xe đã mất cho ông B theo như đã thoả thuận. Sau đó, ông B đã khởi kiện ông V tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân. Theo Bản án số 1414/2016/DS-PT ngày 28/12/2016 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã buộc ông V phải bồi thường tài sản bị mất cho ông B số tiền 29.000.000 đồng (Hai mươi chín triệu đồng) và chi phí giám định 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng).
Vì vậy, ông V yêu cầu công ty TT phải bồi thường tài sản bị mất mà ông V đã bồi thường cho khách hàng với số tiền 29.000.000 đồng (Hai mươi chín triệu đồng) và tiền chi phí định giá 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng), tổng cộng là 36.000.000 đồng (Ba mươi sáu triệu đồng), yêu cầu bồi thường làm một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.
Công ty TNHH dịch vụ bảo vệ TT, có bà Ngô Thị Châu H , chức vụ giám đốc, đại diện theo pháp luật: Đã được Tòa án tống đạt hợp lệ lần thứ hai, yêu cầu đại diện công ty có mặt để Tòa án tiến hành xét xử giải quyết việc tranh chấp hợp đồng dịch vụ giữa ông V với công ty nhưng đại diện công ty TT vẫn vắng mặt không có lý do.
Ông Châu Văn B trình bày: Trước đây ông có khởi kiện ông V trong vụ án tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản. Vụ việc đã được Tòa án xét xử sơ thẩm và phúc thẩm, buộc ông V có trách nhiệm bồi thường cho ông số tiền 29.000.000 đồng (Hai mươi chín triệu đồng) và chi phí định giá cho ông 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng), tổng cộng số tiền là 36.000.000 đồng (Ba mươi sáu triệu đồng).
Nay, đối với việc ông V khởi kiện công ty TT, ông không có ý kiến và tranh chấp gì, đây là việc của đôi bên. Ông yêu cầu Tòa án giải quyết theo đúng quy định của pháp luật. Do bận công việc nên ông không thể đến tòa theo giấy triệu tập được vì vậy ông xin vắng mặt trong tất cả các buổi hòa giải và xét xử của Tòa án.
Tại phiên toà hôm nay:
Nguyên đơn: Ông Lưu Khánh V - chủ quán cà phê – bida TC, có ông Đ đại diện ủy quyền vẫn giữ yêu cầu công ty TT phải bồi thường tài sản bị mất mà ông đã bồi thường cho khách hàng với số tiền 29.000.000 đồng (Hai mươi chín triệu đồng) và tiền chi phí định giá 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng), tổng cộng là 36.000.000 đồng (Ba mươi sáu triệu đồng), yêu cầu bồi thường làm một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.
Bị đơn: Công ty TNHH dịch vụ bảo vệ TT, có bà Ngô Thị Châu H, chức vụ giám đốc, đại diện theo pháp luật, đã được Tòa án tống đạt hợp lệ lần thứ hai, yêu cầu đại diện công ty có mặt để Tòa án tiến hành xét xử giải quyết việc tranh chấp hợp đồng dịch vụ giữa ông V với công ty TT nhưng đại diện công ty vẫn vắng mặt không có lý do. Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với công ty TT.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Châu Văn B đã có đơn xin xét xử vắng mặt, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông B .
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
Các bên đương sự tranh chấp hợp đồng thuê dịch vụ bảo vệ. Nơi thực hiện hợp đồng tại quán cà phê – bida TC có địa chỉ tại số 331-333 Vành Đai Trong, phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh, theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm g khoản 1 Điều 40 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, thì vụ án dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
Tranh chấp giữa ông Lưu Khánh V - chủ quán cà phê – bida TC (gọi tắt là ông V ) với công ty TNHH dịch vụ bảo vệ TT (gọi tắt là công ty TT) là tranh chấp hợp đồng dịch vụ, hợp đồng được các bên ký kết được ký kết ngày 13/4/2015, đây là giao dịch dân sự được xác lập trước khi Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực và có tranh chấp, nên áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 và các văn bản pháp luật hướng dẫn áp dụng Bộ luật dân sự 2005 để giải quyết.
Về nội dung: Giữa ông V và công ty TT có ký hợp đồng dịch vụ để công ty trông xe cho khách hàng của quán cà phê – bida TC nhưng ngày 25/4/2015 đã để xảy ra mất xe của khách là ông Châu Văn B . Sau đó, ông B đã khởi kiện ông V yêu cầu bồi thường giá trị tài sản bị mất và trả các chi phí giám định về giá tài sản bị mất. Tại Bản án số 1414/2016/DS-PT ngày 28/12/2016 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh buộc ông V bồi thường cho ông B với số tiền 29.000.000 đồng (Hai mươi chín triệu đồng) và trả chi phí định giá với số tiền 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng), tổng cộng số tiền ông V đã bồi thường cho ông B là 36.000.000 đồng (Ba mươi sáu triệu đồng).
Vì vậy, ông V yêu cầu công ty TT phải bồi thường những thiệt hại về tài sản với số tiền 29.000.000 đồng (Hai mươi chín triệu đồng) và chi phí định giá với số tiền 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng), bồi thường làm một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.
Xét thấy, Quán cà phê –bi da TC do ông Lưu Khánh V làm chủ thực hiện việc kinh doanh và có phục vụ việc giữ xe cho khách, giữa ông V với công ty TT có ký hợp đồng thuê dịch vụ bảo vệ số 0102/HĐDV2015 ngày 13/4/2015.
Tại Điều 1 của hợp đồng quy định: “....-Giới hạn công việc phải làm bao gồm: Đảm bảo an ninh trật tự, trông coi, kiểm soát toàn bộ xe tại mục tiêu, giữ xe cho khách hàng và nhân viên bên A,....” và tại Điều 6 của hợp đồng quy định: “ 6.1 Đối với những mất mát, tổn thất tài sản bên A trong phạm vi khu vực bảo vệ có nguyên nhân và hậu quả trực tiếp do những hành vi đột nhập từ bên ngoài vào mà xác định lỗi của bên B, thì bên B phải chịu trách nhiệm bồi thường theo giá trị thiệt hại....” .
Như vậy, trong quá trình thực hiện hợp đồng, phía công ty TT đã làm mất mát tài sản gây thiệt hại cho phía ông V nên phải có trách nhiệm bồi thường như đã thỏa thuận trong hợp đồng. Do đó, ông V yêu cầu công ty TT phải bồi thường giá trị tài sản bị mất với số tiền 29.000.000đồng (Hai mươi chín triệu đồng) là có căn cứ, không trái quy định pháp luật nên chấp nhận.
Đối với số tiền 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng), đây là số tiền chi phí định giá mà ông V đã trả cho ông B và có yêu cầu công ty TT phải bồi thường cho ông.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 163 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định: “Chi phí định giá tài sản là số tiền cần thiết và hợp lý phải chi trả cho công việc định giá tài sản và do Hội đồng định giá tính căn cứ vào quy định của pháp luật”.
Xét thấy, đây là chi phí hợp lý theo quy định mà ông V đã phải trả cho việc định giá tài sản. Do đó yêu cầu của ông V buộc công ty TT có trách nhiệm phải trả lại cho ông số tiền chi phí trên là có căn cứ nên chấp nhận.
Từ những nhận định trên, xét thấy yêu cầu của ông V buộc công ty TT phải bồi thường thiệt hại tài sản 29.000.000đồng và chi phí định giá 7.000.000 đồng, tổng cộng 36.000.000 đồng (Ba mươi sáu triệu đồng), yêu cầu bồi thường làm một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật là có căn cứ, đúng pháp luật nên chấp nhận.
Công ty TNHH dịch vụ bảo vệ TT đã được Tòa án tống đạt hợp lệ lần thứ hai, yêu cầu công ty TT có mặt để Tòa án tiến hành xét xử giải quyết việc tranh chấp hợp đồng dịch vụ với ông V nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Ông Châu Văn B đã có đơn xin xét xử vắng mặt.
Căn cứ Điều 228, Bộ luật tố dụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
Căn cứ Nghị quyết 326 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Điều 144, Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, thì:
Công ty TNHH dịch vụ bảo vệ TT chịu trách nhiệm bồi thường giá trị tài sản bị mất và tiền chi phí định giá tổng cộng là 36.000.000 đồng nên phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
Số tiền án phí công ty TT phải chịu là 3.000.000đồng.
Ông Lưu Khánh V - chủ quán cà phê – bida TC không phải chịu án phí KDTMST. Hoàn lại tiền tạm ứng án phí cho ông V là 1.500.000 đồng theo biên lai thu số 0001942 ngày 07/02/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm g khoản 1 Điều 40; Điều 146; Điều 147; Điều 203; Điều 220; Điều 227; Điều 228 và Điều 235 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 518; Điều 521 và Điều 522 Bộ luật dân sự 2005;
Căn cứ Nghị quyết 326 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án năm 2016 của UBTVQH.
1. Chấp nhận yêu cầu của ông Lưu Khánh V - chủ quán cà phê – bida TC.
Buộc công ty TNHH dịch vụ bảo vệ TT bồi thường cho ông Lưu Khánh V - chủ quán cà phê – bida TC số tiền 36.000.000 đồng (Ba mươi sáu triệu đồng), trả một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày ông Lưu Khánh V - chủ quán cà phê – bida TC có đơn yêu cầu thi hành án, nếu công ty TNHH dịch vụ bảo vệ TT chưa T toán số tiền nêu trên thì hàng tháng công ty TNHH dịch vụ bảo vệ TT phải chịu thêm tiền lãi tính theo mức lãi suất nợ cơ bản do ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
Đôi bên thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
2. Án phí KDTMST: Công ty TNHH dịch vụ bảo vệ TT phải chịu án phí số tiền là 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng).
Ông Lưu Khánh V - chủ quán cà phê – bida TC không phải chịu án phí DSST. Hoàn trả cho ông Lưu Khánh V - chủ quán cà phê – bida TC số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.500.000 đồng, theo biên lai thu số 0001942 ngày 07 tháng 02 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
Các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án tại địa phương.
“Trường hợp quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
Bản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 53/2017/KDTM-ST
Số hiệu: | 53/2017/KDTM-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Bình Tân - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 18/07/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về