Bản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 09/2024/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 09/2024/DS-ST NGÀY 23/08/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ

Ngày 23 tháng 8 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh P1 xét xử sơ thẩm công khaivụ án thụ lý số 66/2023/TLST- DSngày 01 tháng 12 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2024/QĐXX-ST ngày 16/7/2024; Quyết định hoãn phiên tòa số 52/2024/QĐST-DS ngày 30/7/2024; Thông báo về việc thay đổi thời gian mở phiên tòa số: 16/TB-TA ngày 06/8/2024 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Công ty TNHH thương mại dịch vụ và bưu chính Q;

Địa chỉ trụ sở: tổ dân phố Cả Đoài, phường Nam Viêm, thành phố P, tỉnh V. Người đại diện theo pháp luật: ông Nguyễn Văn Th – chức vụ: Giám đốc (có mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Nguyên đơn: ông Vũ Quốc H1, Luật sư Văn phòng Luật sư V thuộc Đoàn Luật sư tỉnh V.

Địa chỉ: số 82, Trần Phú, phường Nam Viêm, thành phố P, V.

(có mặt)

- Bị đơn: Anh Nguyễn Trọng X, sinh năm 1985 (có mặt);

Nơi cư trú: phố Tân Tiến, thị trấn S, huyện S, tỉnh P1.

Địa chỉ nơi làm việc: thôn Cửa Ngòi, xã Nhạo Sơn, huyện Sông Lô, V.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: chị Lê Thị X Th1, sinh năm 1995 (vắng mặt);

Nơi tạm trú: SH-95 Centa, phường Phù Chẩn, thành phố Từ Sơn, tỉnh B.

Nơi ĐKNKTT: khu 2 Đồng Than, xã Kiệt Sơn, huyện Tân Sơn, tỉnh P1

NỘI DUNG VỤ ÁN

[1] Tại đơn khởi kiện đề ngày 26/10/2023, Đơn khởi kiện ngày 13/11/2023 những lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, và tại phiên tòa Người đại diện hợp pháp cho Nguyên đơn trình bày:

Công ty TNHH thương mại dịch vụ và bưu chính Q (sau đây viết tắt là Công ty Q) sửa chữa, bổ sung đơn khởi kiện ngày 26/10/2023 và đơn khởi kiện ngày 13/11/2023; giữ nguyên quan điểm tại Bản tự khai ngày 03/6/2024 đối với anh Nguyễn Trọng X. Yêu cầu anh Nguyễn Trọng X phải trả cho Công ty Q số tiền còn nợ là 267.124.500 đồng.

Cụ thể như sau: Năm 2020, anh Nguyễn Văn Th mở Công ty và là người đại diện theo pháp luật cho Công ty TNHH thương mại, dịch vụ và Bưu chính Q để thực hiện nhượng quyền chuyển phát nhanh của Công ty chuyển phát nhanh Best Express có trụ sở tại thành phố Hồ Chí Minh với giá hơn 300.000.000 đồng; việc mua nhượng quyền này là mua thương hiệu chuyển để Công ty Q đứng là chi nhánh lấy thương hiệu chuyển phát nhanh của Best Express và khi mua thương hiệu như vậy thì việc kinh hoanh có lãi hay lỗ là do Công ty Q tự hoạch toán thu chi mà không cần thông qua Công ty mẹ và không phải nộp tiền về cho Công ty Best Express. Việc mua nhượng quyền của anh Th diễn ra trên địa bàn thành phố P và huyện Bình Xuyên tỉnh V. Sau khi mua nhượng quyền, Công ty Best Express cấp cho anh Th một tài khoản là FC62003-00 trên ứng dụng Best Express và mật khẩu cho anh Th đồng thời phân quyền quản lý trên hệ thống ứng dụng Best Express cho các tài khoản khác mà Công ty Q khai thác được.

Khoảng tháng 02/2022, anh Th và anh Nguyễn Trọng X thỏa thuận miệng với nhau về việc phối hợp kinh doanh, vận chuyển hàng. Hai bên thống nhất: anh X đi khai thác những khách hàng có nhu cầu vận chuyển hàng để vận chuyển qua Công ty Q; đối với khách hàng mới do anh X khai thác thì anh Th chỉ lấy cước gốc của Công ty cộng thêm 2.000 đồng/đơn hàng, còn anh X khai thác giá cước bao nhiêu là do anh X và phần chênh lệch anh X sẽ được hưởng. Việc thanh toán thì sau khi Công ty Best Express thanh toán tiền hàng giao thành công và phí vận chuyển thì anh Th sẽ trả lại cho anh X, chỉ giữ lại 2.000 đồng/đơn hàng.

Quá trình thực hiện thỏa thuận, anh X khai thác được 04 shop gồm: shop “Tôm bi” và shop “Ba my” đều của chị Lê Thị X Th1; shop “bích Vân” của chị Vũ thị Bích Vân, sinh năm 1998, trú tại: xã Sơn Hùng, huyện S, tỉnh P1; shop “Lana” của chị Hà Hải Yến, sinh năm 1993, trú tại: xã Lai Đồng, huyện Tân Sơn, tỉnh P1, đều kinh doanh online bán quần áo qua mạng.

Đầu tháng 9/2022, để tăng sản lượng đơn hàng, kích cầu cho nhiều người gửi hàng vào Công ty Best Express qua Công ty Q nên Công ty đã triển khai chương trình khuyến mãi: Công ty Q ứng trước tiền hàng (tiền cod) cho người bán, sau khi hàng được giao thành công thì Công ty Q sẽ thu tiền hàng luôn và không phải trả cho người bán, như vậy người bán sẽ có tiền để tiếp tục kinh doanh và Công ty Q sẽ có cơ hội cạnh tranh, nâng cao doanh thu.

Đến ngày 03/11/2022, Công ty Q cân đối lại việc tiền cod đã ứng cho anh X theo các đơn hàng mà anh X gom được và số lượng tiền hàng mà Công ty Q thu về từ những đơn hàng giao thành công là không tương xứng, trong đó số tiền cod Công ty Q bỏ ra ban đầu nhiều hơn nhiều so với tiền hàng đã thu được đối với các đơn hàng giao thành công, nhưng tại thời điểm này thì Công ty Q không xác định được sự chênh lệch này là bao nhiêu tiền. Cũng trong thời điểm này, Công ty Q kiểm tra giữ liệu trên mạng nội bộ Best Express thì phát hiện những đơn hàng từ ngày 31/10/2022 mà anh X đã gom được có nhiều đơn hàng giao không thành công.

Anh Th đã thông tin lại cho anh X biết đồng thời thông báo việc dừng ứng cod cho X từ ngày 04/11/2022.Sau khi kiểm tra lại, thì từ ngày 20/9/2022 đến ngày 30/10/2022 Công ty Q đã chuyển khoản cho X số tiền là 914.382.000 đồng và từ ngày 31/10/2022 đến ngày 03/11/2022 là 166.703.000 đồng.

Tính đến ngày 15/11/2022, các đơn hàng anh X gom trước đó mà giao không thành công được tập kết về Công ty Q là 591 đơn hàng với giá trị là: 233.760.000 đồng. Công ty Q đã trả lại toàn bộ cho anh X. Anh X đã nhận lại toàn bộ. Hai bên chốt số liệu về số tiền ứng cod và tiền hàng đã giao thành công và xác định anh X còn phải trả cho Công ty Q số tiền 303.072.000 đồng (anh X có viết giấy cam kết ngày 15/11/2022 cho Công ty Q). Anh X cam kết sẽ liên hệ với các shop bán hàng để truy thu số tiền cod đã được nhận trả cho Công ty Q.

Sau đó từ ngày 15/11/2022 đến ngày 20/11/2022 tiếp tục có 18 đơn hàng phải hoàn trả lại do giao hàng không thành công nên anh X và Công ty Q chốt số tiền chênh lệch và xác định anh X còn nợ công ty Q số tiền 309.124.500 đồng, việc thu tiền của shop là trách nhiệm của anh X. Tính đến tháng 7/2023, X đã chuyển trả cho Công ty Q số tiền 42.000.000 đồng. Do đó, số tiền X còn phải trả cho Công ty Q là 267.124.500 đồng.

Công ty Q đã làm đơn tố cáo hành vi của anh X tại Cơ quan Cảnh sát điều tra (sau đây viết tắt là CSĐT) Công an thành phố P, tỉnh V. Tại Thông báo về kết quả giải quyết nguồn tin về tội phạm số: 82/TB-ĐTTH ngày 27/7/2023 của Cơ quan CSĐT Công an thành phố P, tỉnh V đã thông báo: cơ quan CSĐT Công an thành phố P quyết định không khởi tố vụ án do không có sự việc phạm tội xảy ra.

Do đó, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, Nguyên đơn yêu cầu Tòa án các nội dung như sau:

- Yêu cầu anh Nguyễn Trọng X phải trả cho Công ty Q số tiền còn nợ là 267.124.500 đồng do đã nhận ứng trước tiền hàng theo thỏa thuận làm dịch vụ vận chuyển hàng hóa với Công ty Q - Về quan điểm của Bị đơn, đối với yêu cầu của Nguyên đơn; Nguyên đơn có ý kiến như sau: Về nội dung Bị đơn trình bày liên quan đến chị Lê Thị X Th1, Công ty Q chưa trực tiếp làm việc và có bất kỳ thỏa thuận gì với chị Th1 về việc chị Th1 thực hiện nghĩa vụ hoàn trả số tiền 267.124.500 đồng thay cho anh Nguyễn Trọng X sau khi làm việc tại Cơ quan CSĐT Công an tp P. Công ty Q chưa nhận bất kỳ khoản tiền nào từ chị Th1. Về số tiền chị Th1 chuyển cho anh Nguyễn Văn Th, cụ thể tháng 4/2024, chị Th1 có chuyển vào tài khoản cá nhân của anh Th số tiền 10.000.000 đồng. Anh Th không xác định được chị Th1 chuyển cho anh là tiền gì, số tiền này vẫn còn trong tài khoản riêng của anh Th. Anh Th sẽ làm việc rõ với chị Th1 về số tiền trên.

[2]. Phía bị đơn anh Nguyễn Trọng X, trong quá trình giải quyết vụ án trình bày như sau:

Anh X thừa nhận toàn bộ nội dung thỏa thuận dịch vụ bưu chính, gom đơn hàng giữa anh và Công ty Q như anh Th trình bày là đúng.

Việc thực hiện thỏa thuận và tháng 7/2023, tại Cơ quan CSĐT Công an thành phố P, tỉnh V đã xác định số tiền Bị đơn chưa thu được tại shop Tombi do chị Lê Thị X Th1 làm chủ để trả cho Công ty Quốc an là 267.124.500 đồng là đúng.

Tuy nhiên, sau khi làm việc tại Công an, Bị đơn được biết giữa Công ty Q và chị Th1 đã có trao đổi, thỏa thuận với nhau và chị Th1 đã trực tiếp chuyển tiền trả cho Công ty Q qua số tài khoản của anh Nguyễn Văn Th (là giám đốc) số tiền là 10.000.000 đồng. Bị đơn đã cung cấp cho Tòa án, bản chụp màn hình điện thoại của chị Th1 thể hiện nội dung tin nhắn giữa chị Th1 với anh Th. Như vậy, Công ty Quốc an và chị Th1 đã trực tiếp làm việc với nhau và chị Th1 đã nhận trách nhiệm trả số tiền còn thiếu trực tiếp qua Công ty Q (không qua trung gian là Bị đơn nữa). Công ty Q do anh Th là giám đốc đã đồng ý và nhận một phần tiền do chị Th1 thanh toán. Do đó Bị đơn không có nghĩa vụ trả cho Công ty Q số tiền đã xác định ở trên nữa. Nên, Bị đơn không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn.

[3]. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Lê Thị X Th1:

Anh X cho rằng, chị Th1 có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trả số tiền 267.124.500 đồng cho Công ty Q thay cho anh. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã ủy thác cho Tòa án nhân dân thành phố Từ Sơn, tỉnh B để lấy lời khai, làm rõ nội dung anh X đã trình bày nhưng chị Th1 không có mặt tại nơi đăng ký tạm trú. Tòa án cũng đã xác minh tại nơi chị Th1 đăng ký thường trú thì được biết, chị Th1 đã vắng mặt tại nơi đăng ký thường trú, không có mặt tại địa phương từ cuối năm 2023. Do đó, không có quan điểm của chị Th1.

[4] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện S, tỉnh P1 phát biểu quan điểm:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án:Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung giải quyết vụ án:Căn cứ vào các Điều 116, 117, 118, 119, 357, 270, 372, 401, 513, 514 và Điều 517 của Bộ luật dân sự năm 2015; Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;Căn cứ vào khoản 2 Điều 26 và Danh mục được ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.Đề nghị Tòa án:

+ Chấp nhận toàn bộ yều cầu khởi kiện của Công ty TNHH thương mại, dịch vụ và bưu chính Q đối với anh Nguyễn Trọng X.Buộc anh Nguyễn Trọng X có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ hoàn trả số tiền đã nhận khi chấm dứt Hợp đồng dịch vụ cho Công ty TNHH thương mại, dịch vụ và bưu chính Q là 267.124.500 đồng (hai trăm sáu mươi bảy triệu một trăm hai mươi bốn nghìn năm trăm đồng).Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, và Công ty Q có đơn yêu cầu thi hành án mà anh Xchưa trả tiền hoặc chưa trả đủ tiền thì còn phải trả lãi đối với số tiềnchưa thi hành án tương ứng với thời gian chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

+ Án phí dân sự sơ thẩm:Buộc anh Nguyễn Trọng X phải nộp 13.356.200 đồng (mười ba triệu ba trăm năm mươi sáu nghìn hai trăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho Công ty Q số tiền 7.300.000 đồng (bảy triệu ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0004197 ngày 29/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện S, tỉnh P1.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về pháp luật tố tụng:

Công ty Q có đơn khởi kiện, yêu cầu Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh P1 giải quyết buộc anh Nguyễn Trọng X, đăng ký thường trú tại: phố Tân Tiến, thị trấn S, huyện S, tỉnh P1 phải trả lại số tiền 267.124.500 đồng do đã nhận ứng trước tiền hàng theo thỏa thuận làm dịch vụ vận chuyển hàng hóa với Công ty Q. Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh P1.

Về sự vắng mặt của Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chị Lê Thị X Th1 trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa: Chị Th1 theo cung cấp của Bị đơn thì tạm trú tại: SH-95 Centa, phường Phù Chẩn, thành phố Từ Sơn, tỉnh B và ĐKNKTT: khu 2 Đồng Than, xã Kiệt Sơn, huyện Tân Sơn, tỉnh P1. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần báo chị Th1 đến làm việc nhưng chị Th1 không đến. Tòa án đã ủy thác cho Tòa án nhân dân thành phố Từ Sơn, tỉnh B để lấy lời khai, làm rõ nhưng chị Th1 không có mặt tại nơi đăng ký tạm trú. Tòa án cũng đã xác minh tại nơi chị Th1 đăng ký thường trú thì được biết, chị Th1 đã vắng mặt tại nơi đăng ký thường trú, không có mặt tại địa phương từ cuối năm 2023. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xử vắng mặt chị Th1 là phù hợp với điểm d khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2].Về nội dung vụ án:

Xét yêu cầu của Nguyên đơn, Bị đơn thấy rằng:

2.1. Về tính hợp pháp của Hợp đồng dịch vụ (bằng miệng, được các bên thừa nhận) từ tháng 02/2022:

Theo kết quả giải quyết tin tố giác tội phạm của Cơ quan CSĐT Công an thành phố P, tỉnh V thì: Năm 2020,anh Thắngđứng ra thành lập và là người đại diện theo pháp luật cho Công ty TNHH thương mại, dịch vụ và Bưu chính Q để mua nhượng quyền của Công ty chuyển phát nhanh Best Express có trụ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh với giá hơn 300.000.000 đồng; việc mua nhượng quyền này là mua thương hiệu chuyển để Công ty Q đứng là chi nhánh lấy thương hiệu chuyển phát nhanh của Best Express và khi mua thương hiệu như vậy thì việc kinh hoanh có lãi hay lỗ là do Công ty Q tự hoạch toán thu chi mà không cần thông qua Công ty mẹ; không phải nộp tiền về cho Công ty Best Express. Việc mua nhượng quyền của Công ty Q diễn ra trên địa bàn thành phố P và huyện Bình Xuyên tỉnh V. Sau khi mua nhượng quyền, Công ty Best Express cấp cho anh Th một tài khoản là FC62003-00 trên ứng dụng Best Express và mật khẩu cho Công ty Qđồng thời phân quyền quản lý trên hệ thống ứng dụng Best Express cho các tài khoản khác mà Công ty Q khai thác được.

Nguyên đơn và Bị đơn đều thừa nhận, khoảng tháng 02/2022, Công ty Q và anh Nguyễn Trọng X thỏa thuận miệng với nhau về việc phối hợp làm dịch vụ vận chuyển hàng. Hai bên thống nhất: anh X đi khai thác những khách hàng có nhu cầu vận chuyển hàng để vận chuyển qua Công ty Q; đối với khách hàng mới do anh X khai thác thì anh Th chỉ lấy cước gốc của Công ty cộng thêm 2.000 đồng/đơn hàng, còn anh X khai thác giá cước bao nhiêu là do anh X và phần chênh lệch anh X sẽ được hưởng. Việc thanh toán thì sau khi Công ty Best Express thanh toán tiền hàng giao thành công và phí vận chuyển thì anh Th sẽ trả lại cho anh X, chỉ giữ lại 2.000 đồng/đơn hàng.

Việc thỏa thuận trên được thực hiện khi các bên đều có đầy đủ năng lực trách nhiệm dân sự, mục đích, nội dung của giao dịch không trái pháp luật và đạo đức xã hội, hình thức giao dịch phù hợp. Căn cứ vào các Điều 116, 117, 118, 119 và Điều 401, 513, 514 của Bộ luật dân sự năm 2015 thì Hợp đồng giữa Công ty Q và anh X có hiệu lực pháp luật.Như vậy, nội dung được các bên thỏa thuận trong Hợp đồng có hiệu lực ràng buộc đối với các chủ thể tham gia giao dịch.

2.2 Về việc thực hiện, vi phạm và chấm dứt hợp đồng:

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Nguyên đơn và Bị đơn đều thừa nhận: Quá trình thực hiện giao dịch, anh X khai thác được 04 shop gồm: shop “Tôm bi” và shop “Ba my” đều của chị Lê Thị X Th1; shop “Bích Vân” của chị Vũ Thị Bích Vân, sinh năm 1998, trú tại: xã Sơn Hùng, huyện S, tỉnh P1; shop “Lana” của chị Hà Hải Yến, sinh năm 1993, trú tại: xã Lai Đồng, huyện Tân Sơn, tỉnh P1, đều kinh doanh online bán quần áo qua mạng. Đầu tháng 9/2022, để tăng sản lượng đơn hàng, kích cầu cho nhiều người gửi hàng vào Công ty Best Express qua Công ty Q nên Công ty đã triển khai chương trình khuyến mãi: Công ty Q ứng trước tiền hàng (tiền cod) cho người bán, sau khi hàng được giao thành công thì Công ty Q sẽ thu tiền hàng luôn và không phải trả cho người bán, như vậy người bán sẽ có tiền để tiếp tục kinh doanh và Công ty Q sẽ có cơ hội cạnh tranh, nâng cao doanh thu. Đến ngày 03/11/2022, Công ty Q cân đối lại việc tiền cod đã ứng cho anh X theo các đơn hàng mà anh X gom được và số lượng tiền hàng mà Công ty Q thu về từ những đơn hàng giao thành công là không tương xứng, trong đó số tiền cod Công ty Q bỏ ra ban đầu nhiều hơn nhiều so với tiền hàng đã thu được đối với các đơn hàng giao thành công nhưng tại thời điểm này thì Công ty Q không xác định được sự chênh lệch này là bao nhiêu tiền. Cũng trong thời điểm này, Công ty Q kiểm tra giữ liệu trên mạng nội bộ Best Express thì phát hiện những đơn hàng từ ngày 31/10/2022 mà anh X đã gom được có nhiều đơn hàng giao không thành công. Anh Th đã thông tin lại cho anh X biết đồng thời thông báo việc dừng ứng cod cho X từ ngày 04/11/2022. Sau khi kiểm tra lại, thì từ ngày 20/9/2022 đến ngày 30/10/2022 Công ty Q đã chuyển khoản cho X số tiền là 914.382.000 đồng và từ ngày 31/10/2022 đến ngày 03/11/2022 là 166.703.000 đồng.

Tính đến ngày 15/11/2022, các đơn hàng anh X gom trước đó mà giao không thành công được tập kết về Công ty Q là 591 đơn hàng với giá trị là: 233.760.000 đồng. Công ty Q đã trả lại toàn bộ cho anh X. Anh X đã nhận lại toàn bộ. Hai bên chốt số liệu về số tiền ứng cod và tiền hàng đã giao thành công và xác định xanh X còn phải trả cho Công ty Q số tiền 303.072.000 đồng, anh X cam kết sẽ liên hệ với các shop bán hàng để truy thu số tiền cod đã được nhận trả cho Công ty Q(theo Giấy cam kết ngày 15/11/2022).

Sau đó từ ngày 15/11/2022 đến ngày 20/11/2022 tiếp tục có 18 đơn hàng phải hoàn trả lại do giao hàng không thành công nên anh X và Công ty Q chốt số tiền chênh lệch và xác định anh X còn nợ công ty Q số tiền 309.124.500 đồng, việc thu tiền của shop là trách nhiệm của anh X. Tính đến tháng 7/2023, X đã chuyển trả cho Công ty Q số tiền 42.000.000 đồng. Do đó, số tiền X còn phải trả cho Công ty Q là 267.124.500 đồng.

Sự việc trên đều được Nguyên đơn, Bị đơn thừa nhận và cũng phù hợp với quá trình giải quyết nguồn tin về tội phạm của Cơ quan CSĐT Công an thành phố P theo Thông báo kết quả giải quyết nguồn tin về tội phạm số 82/TB-ĐTTH ngày 27/7/2023 và Quyết định giải quyết khiếu nại số 01/QĐ-VKSPY ngày 30/8/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh V.

Đây là những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Như vậy, việc Công ty Q đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng với anh X là do các đơn hàng mà anh X gom được và số lượng tiền hàng mà Công ty Q thu về từ những đơn hàng giao thành công là không tương xứng, trong đó số tiền cod Công ty Q bỏ ra ban đầu nhiều hơn nhiều so với tiền hàng đã thu được đối với các đơn hàng giao thành công. Công ty Q đã thông báo trực tiếp với anh X và hai bên đã chốt số tiền chênh lệch và xác định anh X còn nợ Công ty Q số tiền 309.124.500 đồng và xác định việc thu tiền của shop là trách nhiệm của anh X;tính đến tháng 7/2023, X đã chuyển trả cho Công ty Q số tiền 42.000.000 đồng. Do đó, số tiền X còn phải trả cho Công ty Q là 267.124.500 đồng. Việc đơn phương chấm dứt hợp đồng dịch vụ của Công ty Q với anh X là phù hợp với quy định tại Điều 520 của Bộ luật dân sự, đượcanh X đồng ý, thừa nhận và thực tế các bên đã chấp dứt hợp đồng dịch vụ từ ngày 04/11/2022. Từ ngày 01/11/2022 đến tháng 7/2023, Công ty Q và anh X đã thực hiện nốt những tồn đọng về quyền và nghĩa vụ của các bên sau khi chấm dứt hợp đồng.

2.3. Về yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn, quan điểm của Bị đơn:

Do anh X không thực hiện nghĩa vụ theo thỏa thuận, hoàn trả cho Công ty Q số tiền đã nhận ứng còn nợ lại là 267.124.500 đồng, nên Công ty Q khởi kiện, yêu cầu anh X phải hoàn trả.

Xét thấy, tại cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố P, tỉnh V và quá trình giải quyết vụ án Công ty Q và anh X đều thừa nhận tính đến thời điểm kết thúc tin báo tố giác tội phạm của Cơ quan CSĐT Công an thành phố P, tỉnh V (khoảng tháng 7/2023) thì anh X là người có nghĩa vụ phải hoàn trả số tiền 267.124.500 đồng; phía anh X cam kết có trách nhiệm liên hệ và thu hồi tại tại shop “Tôm bi” và shop “Ba my” đều của chị Lê Thị X Th1 số tiền trên để hoàn trả cho Công ty Q.

Tuy nhiên, anh X cho rằng sau tháng 7/2023 cụ thể khoảng tháng 4/2024, chị Th1 và anh Th là người đại diện theo pháp luật của Công ty Q đã trực tiếp có trao đổi, thỏa thuận chị Th1 đã nhận trách nhiệm trả số tiền còn thiếu là 267.124.500 đồng trực tiếp qua Công ty Q (không qua trung gian là Bị đơn); anh Th đã đồng ý và nhận một phần tiền do chị Th1 thanh toán; nên Bị đơn không có nghĩa vụ trả cho Công ty Q số tiền trên. Phía Công ty Q không đồng ý và thừa nhận nội dung trình bày của anh X, Công ty Q vẫn yêu cầu anh X phải thực hiện nghĩa vụ theo thỏa thuận, hoàn trả cho Công ty Q số tiền 267.124.500 đồng.

Xét thấy, Công ty Q và anh X thỏa thuận anh X đi khai thác những khách hàng có nhu cầu vận chuyển hàng để vận chuyển qua Công ty Q; đối với khách hàng mới do anh X khai thác thì anh Th chỉ lấy cước gốc của Công ty cộng thêm 2.000 đồng/đơn hàng, còn anh X khai thác giá cước bao nhiêu là do anh X và phần chênh lệch anh X sẽ được hưởng. Việc thanh toán thì sau khi Công ty Best Express thanh toán tiền hàng giao thành công và phí vận chuyển thì anh Th sẽ trả lại cho anh X, chỉ giữ lại 2.000 đồng/đơn hàng. Quá trình thực hiện thỏa thuận, anh X khai thác được 04 shop gồm: shop “Tôm bi” và shop “Ba my” đều của chị Lê Thị X Th1; shop “Bích Vân” của chị Vũ Thị Bích Vân, sinh năm 1998, trú tại: xã Sơn Hùng, huyện S, tỉnh P1; shop “Lana” của chị Hà Hải Yến, sinh năm 1993, trú tại: xã Lai Đồng, huyện Tân Sơn, tỉnh P1, đều kinh doanh online bán quần áo qua mạng. Như vậy, các bên trong hợp đồng dịch vụ là anh X và Công ty Q; các chủ đơn hàng là chị Th1, chị Vân và chị Yến chỉ liên hệ và giao dịch trực tiếp với anh X mà không có bất kỳ thỏa thuận gì với Công ty Q. Anh X và Công ty Q là các bên có quyền và thực hiện nghĩa vụ với nhau trong Hợp đồng dịch vụ về vận chuyển hàng hóa, bưu chính. Công ty Q và anh X đều thừa nhận đến tháng 7/2023, anh X là bên có nghĩa vụ hoàn trả số tiền 267.124.500 đồng khi hai bên chấm dứt hợp đồng dịch vụ.

Việc anh X cho rằng chị Th1 đã thỏa thuận với Công ty Q thực hiện nghĩa vụ hoàn trả số tiền 267.124.500 đồng thay cho anh, việc này không được Công ty Q thừa nhận. Theo quy định tại Điều 370 của Bộ luật dân sự thì “Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý…”. Quá trình giải quyết vụ án, Công ty Q và anh X đều xác định giữa anh X và Công ty Q chưa có thỏa thuận nào về việc anh X chuyển giao nghĩa vụ trên cho chị Lê Thị X Th1. Anh X chỉ cung cấp về việc chị Th1 tự nguyện thực hiện nghĩa vụ thay anh đối với Công ty Q; việc này không được Công ty Q thừa nhận. Mặt khác, quá trình giải quyết vụ án, chị Th1 không có mặt và không có lời trình bày nào về nội dung trên; anh X cũng không cung cấp được chứng cứ nào để chứng minh việc anh đã chuyển giao nghĩa vụ của anh đối với Công ty Q cho chị Lê Thị X Th1 và đã được Công ty Q đồng ý.

Đối chiếu với viện dẫn quy định pháp luật trên, thì việc anh X cho rằng đã chuyển giao nghĩa vụ hoàn trả cho Công ty Q số tiền 267.124.500 đồng cho chị Lê Thị X Th1 là không có căn cứ và không được chấp nhận. Anh X chưa được chấm dứt nghĩa vụ đối với Công ty Q.

Do đó, yêu cầu của Công ty Q, buộc anh X phải thực hiện nghĩa vụ khi chấm dứt Hợp đồng dịch vụ, hoàn trả cho Công ty Q số tiền đã nhận là 267.124.500 đồng là phù hợp các Điều 370, 372, 513, 514, 517 của Bộ luật dân sự.

Công ty Q không yêu cầu anh X phải thực hiện trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền từ thời điểm xác định được số tiền mà anh X phải hoàn trả ( khi kết thúc tin báo tố giác tội phạm) đến ngày xét xử, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, và Công ty Q có đơn yêu cầu thi hành án mà anh Xchưa trả tiền hoặc chưa trả đủ tiền thì còn phải trả lãi đối với số tiềnchưa thi hành án tương ứng với thời gian chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Về mối quan hệ giữa anh X và chị Lê Thị X Th1 và mối quan hệ giữa anh Nguyễn Văn Th, Công ty Q với chị Lê Thị X Th1 nếu các bên cho rằng quyền và lợi ích bị xâm phạm và có tranh chấp thì được quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết bằng vụ, việc dân sự khác.

[3]. Về án phí:Theo quy định tại khoản 1 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 và Danh mục ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, anh Nguyễn Trọng Xphải chịu án phí sơ thẩm do yêu cầu của Công ty Q được chấp nhận. Trả lại cho Công ty Qsố tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện S.

[4]. Về quyền kháng cáo:Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[5]. Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp, hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ vào các Điều 116, 117, 118, 119, 357, 370, 372, 401, 513, 514 và Điều 517 của Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 2 Điều 26 và Danh mục được ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yều cầu khởi kiện của Công ty TNHH thương mại, dịch vụ và bưu chính Q đối với anh Nguyễn Trọng X.

2. Buộc anh Nguyễn Trọng X có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụhoàn trả số tiền đã nhận khi chấm dứt Hợp đồng dịch vụ cho Công ty TNHH thương mại, dịch vụ và bưu chính Q là 267.124.500 đồng (hai trăm sáu mươi bảy triệu một trăm hai mươi bốn nghìn năm trăm đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, và Công ty Q có đơn yêu cầu thi hành án mà anh Xchưa trả tiền hoặc chưa trả đủ tiền thì còn phải trả lãi đối với số tiềnchưa thi hành án tương ứng với thời gian chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

3. Án phí dân sự sơ thẩm:Buộc anh Nguyễn Trọng X phải nộp 13.356.200 đồng (mười ba triệu ba trăm năm mươi sáu nghìn hai trăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho Công ty Q số tiền 7.300.000 đồng (bảy triệu ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0004197 ngày 29/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện S, tỉnh P1.

4. Quyền kháng cáo:Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên ánđể yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh P1 xét xử phúc thẩm.

5. Trong trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì Người được thi hành án dân sự, Người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thi hành theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 09/2024/DS-ST

Số hiệu:09/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 23/08/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;