Bản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ pháp lý số 174/2024/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 174/2024/DS-PT NGÀY 19/03/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ

Ngày 19 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 424/2023/TLPT-DS ngày 24/10/2023 về "Tranh chấp hợp đồng dịch vụ pháp lý”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 42/2023/DS-ST ngày 01/8/2023 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 531/2023/QĐ-PT ngày 09/11/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa dân sự phúc thẩm số 519/2023/QĐ-PT ngày 27/11/2023 và Thông báo mở lại phiên tòa phúc thẩm số 99/2024/TB-MPT ngày 12/3/2024, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Trương Thị B, sinh 01/01/1964. Địa chỉ: Số B tổ A T, phường G, quận L, Hà Nội. Người đại diện theo ủy quyền: Bà Vũ Thị Kim C, sinh năm 1972 và ông Vũ Mạnh H, sinh năm 1964. Cùng đăng ký hộ khẩu thường trú tại: 111/8/19 KP3A phường T, quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi ở hiện tại: Số E ngõ F L, phường X, quận T, Hà Nội.

Có mặt ông H, bà C

* Bị đơn: Công ty L1; Địa chỉ: D H, phường H, quận H, Thành phố Hà Nội. Người đại diện theo pháp luật: Ông Vũ Mạnh C1 - Giám đốc.

Vắng mặt và có đơn xin vắng mặt - Người kháng cáo: Bà Trương Thị B

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo án sơ thẩm vụ án có nội dung như sau:

* Theo đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Trương Thị B và người đại diện theo ủy quyền của bà B là bà Vũ Thị Kim C, ông Vũ Mạnh H trình bày:

Qua giới thiệu của Lê Thị T - một trong số những nạn nhân trong vụ lừa đảo của Công ty T2 nên tối ngày 30/7/2019 bà B đã đến nhà bà T, lúc đó ông C1 đang tư vấn cho nhiều người nên bà B mới biết đến ông Vũ Mạnh C1 - Công ty L1. Ông C1 cho biết ông có mối quan hệ ở Toà án tối cao và Viện kiểm sát tối cao sẽ giúp được mọi người lấy lại được tài sản là “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” đã bị Công ty T2 lừa.

Bà T và bà Trần Thị Kim H1 cũng là nạn nhân của Công ty T2 đã chia sẻ thông tin về ông C1 từ trước cho bà B biết. Bà B đã tin tưởng việc ông C1 có thể giúp được cho gia đình bà B, chính vì vậy tối ngày 30/7/2019 bà B đã đến nhà bà T để gặp ông C1, nghe ông C1 tư vấn rồi sau đó bà B ký Hợp đồng dịch vụ pháp lý với ông C1 tại nhà bà T cùng ngày và nộp 50.000.000 đồng cho ông C1 và nhận Phiếu thu tiền.

Ông C1 đã sử dụng bản tường trình của bà B cung cấp để soạn thảo Đơn tố cáo tập thể gồm 09 người đề ngày 30/8/2019, ông C1 nói đơn này đã nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Thành phố H (PC01) nhưng theo Công văn 541 ngày 03/4/2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Thành phố H, trả lời “Tháng 9/2019, văn phòng Cơ quan CSĐT Công an T không nhận được đơn của bà Trương Thị B tố giác Đỗ Thị T1 có thông tin như trên do bà Trần Thị Kim H1 nộp” và “ngày 05/9/2019, Văn phòng Cơ quan CSĐT Công an T nhận được đơn của bà Trương Thị B , địa chỉ: Tổ A, T, phường G, quận L, Hà Nội tố giác ông P, bà L cùng một số đối tượng của Công ty T2 có hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của bà B thông qua việc yêu cầu bà B ký giấy tờ giả làm thủ tục thế chấp quyền sử dụng đất để vay tiền sau đó chiếm đoạt do Tòa án quận L chuyển đến”.

Ngày 09/7/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra - Bộ C2 có nhận được Đơn tố cáo của bà Trương Thị B (Công văn số 656/C01-P1) qua đường bưu điện và được Cơ quan CSĐT - Bộ C2 chuyển đơn đến Cơ quan cảnh sát điều tra -Công an huyện P là nơi giải quyết vụ việc cho bà B. Ngày 15/7/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện P tiếp nhận Đơn tố giác trên của bà B (Công văn số 243/CSĐT-ĐTTH ngày 22/7/2019) và đã chuyển Đơn của bà B đến Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an quận L (Công văn số 299 ngày 26/6/2020). Do đó thể hiện bà B đã tự nộp Đơn đến các Cơ quan cảnh sát điều tra, không liên quan đến Đơn tố cáo của ông C1 soạn thảo. Đơn của ông C1 soạn thảo, không có tài liệu thể hiện ông C1 đã nộp và được thụ lý giải quyết tại Cơ quan Công an cảnh sát điều tra như ông C1 trình bày.

Đơn tố cáo tập thể có chữ ký của bà B do ông C1 soạn thảo, ông C1 khai đã đưa Đơn này cho bà H1, bà T để đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố H nộp, Đơn đã được tiếp nhận, vào sổ thụ lý và Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố H, ông C1 phải cung cấp giấy tiếp nhận, thụ lý Đơn và Công văn trả lời của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố H.

Theo bà H1, bà T trình bày khi hai bà đến 55 L, quận H, Thành phố Hà Nội, không mang theo Đơn, không mang theo bất cứ giấy tờ gì khác mà đến đó theo sự hướng dẫn của ông C1. Khi đến đó bà H1, bà T ngồi chờ ở ngoài để ông C1 vào làm việc với ai đó hai bà không biết. Sau khoảng 15-20 phút thì ông C1 đi ra nói bà H1, bà T đi về và chờ đợi.

Như vậy, Hợp đồng dịch vụ pháp lý là do ông C1 tự soạn thảo, đề xuất đưa ra những điều khoản nhưng ông C1 chưa thực hiện được một điều khoản nào trong Hợp đồng nêu trên. Nên bà B yêu cầu hủy Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 07/2019 ngày 30/7/2019 là thỏa đáng. Việc ông C1 chiếm giữ 50.000.000 đồng từ tháng 7 năm 2019 đến nay mà không thực hiện được bất cứ một việc gì theo Hợp đồng dịch vụ pháp lý, gây thiệt hại cho bà B mất đi cơ hội khởi kiện hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Ngày 15/9/2020 bà Vũ Thị Kim C đại diện cho 12 người bị hại trong đó có bà B gửi Đơn đến Công ty L1, yêu cầu ông C1 thanh lý Hợp đồng hoặc chủ động hẹn gặp 12 khách hàng thỏa thuận về việc có thực hiện làm công việc theo Hợp đồng hay không nhưng ông C1 không phản hồi.

Do vậy, nguyên đơn bà B làm đơn khởi kiện Công ty L1 ra Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, đề nghị Tòa án giải quyết những nội dung sau:

1. Đề nghị Tòa án hủy Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 07 ngày 30/7/2019 giữa bà Trương Thị B với bị đơn Công ty L1. Đề nghị Tòa án tuyên bố Hợp đồng dịch vụ pháp lý trên vô hiệu và giải quyết hậu quả của Hợp đồng vô hiệu.

2. Đề nghị ông C1 - Giám đốc Công ty L1 phải trả lại cho bà B số tiền 50.000.000 đồng mà ông C1 đã nhận theo Phiếu thu tiền 50.000.000 đồng của ông C1 đề tháng 7/2019.

3. Buộc ông C1 - Giám đốc Công ty L1 phải trả cho bà B tiền lãi tính theo lãi suất của Ngân hàng N là 12%/năm, tạm tính từ tháng 8/2019 cho tới khi có quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Cụ thể, từ tháng 8/2019 đến tháng 3/2023 là 03 năm 07 tháng x 30 ngày/tháng = 1.290 ngày x 50.000.000 đồng x 12% : 360 = 21.500.000 đồng.

Tổng cộng cả gốc và lãi là: 71.500.000 đồng (Bảy mươi mốt triệu, năm trăm nghìn đồng).

* Bị đơn - Công ty L1 (viết tắt là Công ty L1) do ông Vũ Mạnh C1 là giám đốc đại diện theo pháp luật trình bày:

Ngày 30/7/2019 giữa Công ty L1 do ông là người đại diện theo pháp luật và bà Trương Thị B đã ký Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 07/2019/HĐPLHN. Tại Điều 1 Nội dung của Hợp đồng có quy định: Bên A (tức bà Trương Thị B) đồng ý thuê bên B (tức Công ty L1) và bên B đồng ý nhận tư vấn pháp luật và thực hiện dịch vụ pháp lý cho bên A, bao gồm các công việc cụ thể sau:

1. Thu thập, xác minh, nghiên cứu và đánh giá hồ sơ, tài liệu, chứng cứ trong vụ việc tranh chấp vay nợ, thế chấp, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất do bên A là chủ sở hữu. Bên A cho rằng tài sản trên bị lừa đảo, chiếm đoạt.

2. Soạn thảo các văn bản, đơn từ đề nghị hoặc phối hợp với các Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để giải quyết vụ việc.

3. Thay mặt và đại diện bên A liên hệ và làm việc với Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, tổ chức, cá nhân có liên quan để giải quyết các tranh chấp nói trên hoặc tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bên A. Soạn thảo các văn bản, đơn từ để bên A gửi đến các cơ quan chức năng.

Trước khi ký kết Hợp đồng dịch vụ pháp lý, Công ty L1 do ông là người đại diện đã làm việc trực tiếp với bà B, đưa bà B xem Hợp đồng, đọc lại cho bà B nghe. Sau đó, bà B đồng ý ký kết và cam kết thực hiện đúng nội dung Hợp đồng. Cùng ngày, bà B đã ký Đơn yêu cầu Luật sư, trong đó yêu cầu Công ty L1 cử Luật sư thu thập, nghiên cứu hồ sơ và tư vấn, tham gia tố tụng theo như nội dung của Hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ký.

Ngay sau khi ký Hợp đồng dịch vụ pháp lý, Công ty L1 đã cử Luật sư là ông trực tiếp tư vấn ngoài giờ hành chính cho bà B. Ông là người đã thu thập hồ sơ và tư vấn 04 buổi ngoài giờ hành chính cho bà B, cụ thể vào các buổi tối trong tháng 7 và tháng 8 năm 2019. Quá trình nghiên cứu hồ sơ do bà B cung cấp, nhận thấy sự việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự nên ông đã tư vấn cho bà B làm “Đơn tố cáo”. Ông đã soạn “Đơn tố cáo” và chuyển cho bà B đọc và đồng ý ký vào Đơn. Sau khi bà B ký “Đơn tố cáo” do ông soạn thảo. Tháng 9 năm 2019 ông đã liên hệ với Cơ quan cảnh sát diều tra - Công an thành phố H để hướng dẫn nộp Đơn và do bà Trần Thị Kim H1, bà Lê Thị T là hai người đại diện thay bà B đến Cơ quan Công an nộp Đơn, nhưng không biết đường nên ông đã chỉ đường và đợi bà H1, bà T đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố H để nộp Đơn tố cáo.

Như vậy, với ba nội dung công việc quy định trong Hợp đồng dịch vụ pháp lý nêu trên thì Công ty L1 đã thực hiện được mục 1 và mục 2. Còn mục 3 Công ty L1 chưa thực hiện được, vì lý do khi Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố H đang thụ lý giải quyết thì bà B yêu cầu Công ty L1 dừng công việc và trả lại tiền cho bà B.

Tại điểm a mục 3.1 Điều 3 của Hợp đồng dịch vụ pháp lý đã quy định rõ: “Phí tư vấn:

a. Phí tư vấn cho điều 1.1 và 1.2 là 50.000.000 đồng - khoản phí này không hoàn lại trong bất cứ trường hợp nào”.

Phí dịch vụ của điểm b khoản 3.1 của Điều 3 là 350.000.000 đồng. Thực tế, bà B mới nộp phí dịch vụ cho mục 1.1 và 1.2 của điểm a mục 3.1 Điều 3 của Hợp đồng dịch vụ pháp lý.

Bà B chưa nộp phí dịch vụ cho điểm b mục 3.1 Điều 3 của Hợp đồng dịch vụ pháp lý nên việc Công ty L1 chưa thực hiện nội dung công việc theo điểm b mục 3.1 là do yêu cầu của bà B và cũng là đúng thoả thuận trong Hợp đồng.

Theo ông C1, việc ký kết Hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa Công ty L1 và bà Trương Thị B là hoàn toàn tự nguyện, không trái đạo đức xã hội, không vi phạm điều cấm của pháp luật. Do đó yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trương Thị B là không có căn cứ, đề nghị Toà án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà B.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

* Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Vũ Thị Kim C và ông Vũ Mạnh H thống nhất trình bày:

Nguyên đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu: Đề nghị Tòa án tuyên Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 07/2019/HĐPL-HN ngày 30/7/2019 giữa bà Trương Thị B và Công ty L2 do bị lừa dối theo Điều 127 và Điều 131 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Các yêu cầu khác nguyên đơn vẫn giữ nguyên, cụ thể như sau:

1. Đề nghị Tòa án tuyên hủy Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 07/2019/HĐPL-HN ngày 30/7/2019 giữa bà Trương Thị B và Công ty L1 theo Điều 423 và Điều 427 của Bộ luật dân sự năm 2015, do Công ty L1 đã vi phạm việc thực hiện nghĩa vụ khi ký kết Hợp đồng.

2. Đề nghị Tòa án giải quyết hậu quả của việc hủy bỏ Hợp đồng theo Điều 427 của Bộ luật dân sự năm 2015. Buộc bị đơn Công ty L1 phải trả cho nguyên đơn Bà Trương Thị B số tiền phí dịch vụ đã đóng là 50.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh (do ông C1 chiếm dụng số tiền của bà B) tạm tính từ ngày 30/9/2019 đến ngày ngày 30/7/2023 = 4 năm x360 ngày/năm= 1.140 ngày x 50.000.000 đồng x 12%/năm: 360 ngày = 24.000.000 đồng. Tổng cộng cả tiền gốc và tiền lãi là 74.000.000 đồng.

* Bị đơn Công ty L1 do ông Vũ Mạnh C1 - Giám đốc là người đại diện theo pháp luật: Có Đơn xin xét xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên các ý kiến đã trình bày tại các Bản tự khai, Văn bản ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 42/2023/DS-ST ngày 01/8/2023 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm đã quyết định:

Căn cứ vào:

- Khoản 2 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Các Điều 119; Điều 423; Điều 427; Điều 513; Điều 514; Điều 515; Điều 516; Điều 517; Điều 518 và Điều 519 của Bộ luật dân sự năm 2015.

- Nghị quyết số 326/2016/UBNVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trương Thị B đối với bị đơn Công ty L1, về việc: “Yêu cầu hủy Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 07/2019/HĐPL-HN ngày 30/7/2019, giữa bà Trương Thị B và Công ty L1”.

2. Xác định Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 07/2019/HĐPL-HN ngày 30/7/2019 giữa bà Trương Thị B và Công ty L1 có hiệu lực pháp luật.

3. Xác định bị đơn Công ty L1 đã thực hiện đúng các thỏa thuận tại mục 1.1 và 1.2 Điều 1 của Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 07/2019/HĐPL-HN ngày 30/7/2019 đối với nguyên đơn bà Trương Thị B.

4. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Trương Thị B buộc bị đơn Công ty L1 phải trả lại cho nguyên đơn bà Trương Thị B số tiền phí dịch vụ theo Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 07/2019/HĐPL-HN ngày 30/7/2019 là 50.000.000 đồng và tiền lãi tạm tính đến ngày 30/7/2023 là 24.000.000 đồng. Tổng cộng là 74.000.000 đồng (bẩy mươi bốn triệu đồng).

5. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trương Thị B đối với bị đơn Công ty L1, về việc: Đề nghị Tòa án tuyên Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 07/2019/HĐPL-HN ngày 30/7/2019, giữa bà Trương Thị B và Công ty L2 do bị lừa dối theo Điều 127 và Điều 131 của Bộ luật dân sự năm 2015.

6. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Nguyên đơn bà Trương Thị B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 3.700.000 đồng (Ba triệu bảy trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 1.250.000 đồng mà bà B đã nộp - theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số:AA/2020/0051979 ngày 09/12/2022 và số tiền tạm ứng án phí 537.000 đồng mà bà B đã nộp - theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số:AA/2020/0052229 ngày 07/4/2023 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội. Bà B còn phải nộp thêm 1.913.000 đồng (một triệu, chín trăm mười ba nghìn đồng).

Bị đơn Công ty L1 không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Sau khi xét xử sơ thẩm, nguyên đơn bà Trương Thị B kháng cáo toàn bộ bản án dân sự thẩm số 42/2023/DS-ST ngày 01/8/2023 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm và yêu cầu: Hủy bản án dân sự sơ thẩm số 42/2023/DS-ST ngày 01/8/2023 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn thay đổi bổ sung kháng cáo. Cụ thể nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện về yêu cầu buộc bị đơn thanh toán số tiền phí dịch vụ pháp lý 5.000.000 đồng và số tiền lãi (của phí dịch vụ pháp lý 50.000.000 đã nộp cho bị đơn) là 24.000.000 đồng (nguyên đơn cho rằng bị đơn đã thực hiện được một phần công việc theo hợp đồng dịch vụ pháp lý tương đương với số tiền là 5.000.000 đồng trên tổng giá trị hợp đồng 50.000.000 đồng). Nguyên đơn chỉ yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền 45.000.000 đồng tiền phí dịch vụ pháp lý theo Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 07/2019/HĐPL-HN ngày 30/7/2019. Đại diện ủy quyền của nguyên đơn bà B đề nghị được miễn án phí cho bà B vì bà B sinh 01/01/1964 tính đến thời điểm xét xử phúc thẩm đã trên 60 tuổi.

Bị đơn vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự đã thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án.

Về giải quyết nội dung vụ án: Sau khi phân tích đại diện Viện kiểm sát đề nghị căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 289 Bộ luật tố tụng dân sự không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số 42/2023/DS- ST ngày 01/8/2023 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội và đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với số tiền nguyên đơn đã rút là 5.000.000 đồng phí dịch vụ pháp lý và 24.000.000 đồng tiền lãi. Bà B là người cao tuổi nên được miễn án phí dân sự sơ thẩm, miễn án phí dân sự phúc thẩm theo Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBNVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa xét thấy:

*Về thủ tục: Nguyên đơn bà Trương Thị B kháng cáo theo đúng quy định của pháp luật nên được chấp nhận về hình thức. Việc nguyên đơn thay đổi kháng cáo vẫn nằm trong phạm vi kháng cáo ban đầu nên được hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

*Xét kháng cáo của nguyên đơn, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy: [1]. Về tố tụng: Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền xét xử: Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, các tài liệu chứng cứ do nguyên đơn cung cấp cùng các tài liệu có trong hồ sơ đủ cơ sở xác định đây là vụ án dân sự tranh chấp hợp đồng dịch vụ pháp lý. Bị đơn Công ty L1 có trụ sở tại: D A H, quận H, Hà Nội. Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự, việc Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm thụ lý giải quyết vụ án theo trình tự sơ thẩm là đúng thẩm quyền.

Bị đơn Công ty L1 có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử phúc thẩm vẫn xét xử vụ án theo quy định tại Điều 296 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, nguyên đơn đã rút một phần yêu cầu khởi kiện về yêu cầu: Tòa án tuyên Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 07/2019/HĐPL-HN ngày 30/7/2019 giữa bà Trương Thị B và Công ty L2. Nên Tòa án cấp sơ thẩm “đình chỉ xét xử đối với một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trương Thị B đối với bị đơn Công ty L1, về yêu cầu Tòa án tuyên Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 07/2019/HĐPL-HN ngày 30/7/2019 vô hiệu” là đúng quy định tại khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện về yêu cầu buộc bị đơn thanh toán số tiền phí dịch vụ pháp lý 5.000.000 đồng và số tiền lãi 24.000.000 đồng nên Hội đồng xét xử phúc thẩm đình chỉ xét xử đối với một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn theo quy định tại khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự.

Quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm, đại diện ủy quyền của nguyên đơn trình bày: bà B cùng một số người khác đã có đơn tố giác tội phạm đối với ông Vũ Mạnh C1-giám đốc công ty L1 có dấu hiệu lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận L đã ra Quyết định không khởi tố vụ án hình sự số 839/QĐ-CQĐT(ĐTTH) ngày 13/02/2024 và cung cấp cho Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội quyết định này.

[2]. Về nội dung: Xét kháng cáo của nguyên đơn.

2.1. Xét tính hợp pháp của Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 07/2019/HĐPL- HN ngày 30/7/2019 giữa bà Trương Thị B và Công ty L1.

Nhận thấy: Ngày 30/7/2019 giữa Công ty L1 và bà Trương Thị B có ký Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 07/2019/HĐPL-HN. Nội dung của Hợp đồng như sau:

Bên A (tức bà Trương Thị B) đồng ý thuê bên B (tức Công ty L1) và bên B đồng ý nhận tư vấn pháp luật và thực hiện dịch vụ pháp lý cho bên A, bao gồm các công việc cụ thể sau:

1. Thu thập, xác minh, nghiên cứu và đánh giá hồ sơ, tài liệu, chứng cứ trong vụ việc tranh chấp vay nợ, thế chấp, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất do bên A là chủ sở hữu. Bên A cho rằng tài sản trên bị lừa đảo, chiếm đoạt.

2. Soạn thảo các văn bản, đơn từ đề nghị hoặc phối hợp với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để giải quyết vụ việc.

3. Thay mặt và đại diện bên A liên hệ và làm việc với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, tổ chức, cá nhân có liên quan để giải quyết các tranh chấp nói trên hoặc tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bên A. Soạn thảo các văn bản, đơn từ để bên A gửi đến các cơ quan chức năng.

- Về hình thức của Hợp đồng: Hợp đồng được lập thành văn bản, có chữ của người đại diện Công ty L1 và có đóng dấu của Công ty L1 là bên thực hiện dịch vụ và chữ ký của bà Trương Thị B - bên thuê dịch vụ. Như vậy, hình thức của Hợp đồng dịch vụ pháp lý phù hợp với quy định của pháp luật.

- Về nội dung của Hợp đồng: Căn cứ lời khai của hai bên đương sự, Hội đồng xét xử nhận thấy, trước khi ký kết Hợp đồng, Công ty L1 do ông C1 là đại diện đã làm việc trực tiếp với bà B, đưa bà B xem Hợp đồng, đọc lại cho bà B nghe. Sau đó, bà B đồng ý ký kết và cam kết thực hiện đúng nội dung Hợp đồng. Tại Hợp đồng dịch vụ pháp lý có thoả thuận về nội dung dịch vụ, thời hạn Hợp đồng, phí Hợp đồng cũng như quyền và nghĩa vụ của các bên. Các thoả thuận trên phù hợp với quy định của pháp luật Dân sự cũng như không trái đạo đức xã hội.

2.2. Xét yêu cầu của nguyên đơn về việc đề nghị Toà án tuyên huỷ Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 07 ngày 30/7/2019 giữa nguyên đơn bà Trương Thị B với bị đơn Công ty L1 do Công ty L1 đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ theo Điều 423 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Điều 423 của Bộ luật dân sự năm 2015, quy định:

Huỷ bỏ hợp đồng:

“1. Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại trong trường hợp sau đây:

a) Bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận;

b) Bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng;

c) Trường hợp khác do luật quy định.

2. Vi phạm nghiêm trọng là việc không thực hiện đúng nghĩa vụ của một bên đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng.

3. Bên hủy bỏ hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc hủy bỏ, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.

Quá trình thực hiện Hợp đồng: Sau khi ký kết Hợp đồng dịch vụ pháp lý, bà B đã nộp phí 50.000.000 đồng cho Công ty L1. Đồng thời đã ký Đơn yêu cầu Luật sư, trong đó yêu cầu Công ty L1 cử Luật sư thu thập, nghiên cứu hồ sơ và tư vấn, tham gia tố tụng theo như nội dung của Hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ký.

Công ty L1 đã cử Luật sư là ông C1 trực tiếp tư vấn ngoài giờ hành chính cho B. Ông C1 là người đã thu thập hồ sơ và tư vấn cho bà B 04 buổi vào thời điểm tháng 7, tháng 8/2019. Quá trình nghiên cứu hồ sơ do bà B cung cấp, nhận thấy sự việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự nên ông C1 đã tư vấn cho bà B làm “Đơn tố cáo”. Ông C1 đã soạn “Đơn tố cáo” và chuyển cho bà B đọc, và bà B đồng ý ký đơn. Sau khi bà B ký Đơn tố cáo, ông C1 đã liên hệ với Văn phòng Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố H để được hướng dẫn nộp đơn. Do bà H1 và bà T là người đại diện cho bà B không biết đường nên ông C1 đã chỉ đường và đợi bà H1 và bà T đến Cơ quan Cảnh sát điều tra - số 55 L, quận H, Thành phố Hà Nội để nộp Đơn tố cáo. Tại đơn đề nghị trả lại tiền (lần 2) ngày 11/6/2020 của rất nhiều người gửi ông Vũ Mạnh C1 (trong đó có bà Trương Thị B) có nội dung: “ Sau khi chúng tôi nộp tiền cho ông, với tổng số tiền lên đến 682.000.000 đồng thì ngoài một số việc ông đã hướng dẫn trợ giúp chúng tôi như: chuẩn bị đơn tố cáo, cùng một số người đại diện đi đến Cơ quan công an Thành phố H để nộp đơn, trình bày thêm một số nội dung liên quan đến đơn thư thì công việc hợp tác giữa ông và chúng tôi cũng chưa được tiến hành gì thêm, kết quả thu lại không có gì…Thế nhưng, sau khi gửi đơn lần thứ nhất, chúng tôi thấy rằng ông vẫn có thái độ bất cẩn, bất hợp tác, coi thường quyền lợi của chúng tôi, nên chúng tôi tiếp tục gửi đơn này đến ông với yêu cầu giải quyết chuyện tiền nong mà ông đã nhận của chúng tôi; sau khi đã trừ đi phần giá trị công sức nhỏ bé mà ông đã làm cho chúng tôi như đã nói ở phần trên”. Như vậy, từ 11/6/2020, bà B đã thể hiện ý chí mong muốn chấm dứt hợp đồng dịch vụ pháp lý với Công ty L1.

Như vậy, Hội đồng xét xử khẳng định Công ty L1 đã thực hiện đúng các nội dung đã thỏa thuận trong Hợp đồng.

Do vậy, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đề nghị Tòa án tuyên huỷ Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 07 ngày 30/7/2019 là không có căn cứ nên không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

2.3. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn Công ty TNHH L1 phải hoàn trả lại số tiền phí mà nguyên đơn đã nộp là 45.000.000 đồng.

Hội đồng xét xử nhận thấy, tại mục 3.1 Điều 3 của Hợp đồng dịch vụ pháp lý có thoả thuận về khoản phí này để thực hiện các nội dung cho điều 1.1 và 1.2, gồm: “Thu thập, xác minh, nghiên cứu và đánh giá hồ sơ, tài liệu, chứng cứ trong vụ việc tranh chấp vay nợ, thế chấp, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liên với đất do bên A là chủ sở hữu. Bên A cho rằng tài sản trên bị lừa đảo, chiếm đoạt; soạn thảo các văn bản, đơn từ đề nghị hoặc phối hợp với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để giải quyết vụ việc”.

Và ghi rõ: “Khoản phí này không được hoàn lại trong bất cứ trường hợp nào”.

Thỏa thuận trên không trái quy định của pháp luật. Thực tế, Công ty L1 đã thực hiện các nội dung theo quy định tại mục 1.1 và 1.2 Điều 1 của Hợp đồng, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 519 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Khoản 1 Điều 519 của Bộ luật dân sự năm 2015, quy định như sau:

“1. Bên sử dụng dịch vụ phải trả tiền dịch vụ theo thỏa thuận.” Do đó, bà B phải trả phí 50.000.000 đồng cho Công ty L1 là đúng theo thỏa thuận tại Hợp đồng dịch vụ pháp lý và phù hợp với quy định của pháp luật nên không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn xác định phần việc bị đơn đã thực hiện có giá trị là 5.000.000 đồng và buộc bị đơn Công ty L1 phải trả lại số tiền 45.000.000 đồng.

[3]. Về án phí: Tòa án cấp sơ thẩm xác định nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm là đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên tính đến thời điểm xét xử phúc thẩm, nguyên đơn đã trên 60 tuổi và có đơn xin miễn án phí nên nguyên đơn được miễn án phí dân sự sơ thẩm, miễn án phí dân sự phúc thẩm.

Từ những phân tích trên, hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn nhưng sửa một phần bản án sơ thẩm.

Nhận định của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội tại phiên tòa về cơ bản là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên! 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: - Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 148, khoản 2 Điều 244, Điều 296, khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Các Điều 117, 119, 423, 513, 514, 515, 516, 517, 518, 519 Bộ luật dân sự năm 2015.

- Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBNVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số 42/2023/DS-ST ngày 01/8/2023 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội, cụ thể:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trương Thị B đối với bị đơn Công ty L1, về việc: “Yêu cầu hủy Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 07/2019/HĐPL-HN ngày 30/7/2019, giữa bà Trương Thị B và Công ty L1”.

Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 07/2019/HĐPL-HN ngày 30/7/2019 giữa bà Trương Thị B và Công ty L1 có hiệu lực pháp luật.

2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trương Thị B về yêu cầu buộc bị đơn Công ty L1 phải trả lại cho bà Trương Thị B số tiền phí dịch vụ theo Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 07/2019/HĐPL-HN ngày 30/7/2019 là 45.000.000 đồng (bốn mươi lăm triệu đồng).

3. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trương Thị B đối với bị đơn Công ty L1 về yêu cầu Tòa án tuyên Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 07/2019/HĐPL-HN ngày 30/7/2019 giữa bà Trương Thị B và Công ty L2.

4. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trương Thị B về yêu cầu buộc Công ty L1 thanh toán số tiền phí dịch vụ pháp lý 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) và số tiền lãi 24.000.000 đồng (hai mươi bốn triệu đồng).

5. Về án phí: Bà Trương Thị B được miễn án phí dân sự sơ thẩm, miễn án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả bà Trương Thị B số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm 1.250.000 đồng đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2020/0051979 ngày 09/12/2022 và số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm 537.000 đồng đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2020/0052229 ngày 07/4/2023 của Chi cục thi hành án dân sự quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội.

Hoàn trả bà Trương Thị B 300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2020/0052547 ngày 23/8/2023 của Chi cục thi hành án dân sự quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án và người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận việc thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ pháp lý số 174/2024/DS-PT

Số hiệu:174/2024/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 19/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;