TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 21/2024/DS-ST NGÀY 16/04/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC
Ngày 16 tháng 4 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thành tỉnh Nghệ An mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 197/2023/TLST-DS ngày 06 tháng 11 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2024/QĐXX-ST ngày 06 tháng 02 năm 2024 giữa:
Nguyên đơn: Ông Lưu Quốc L, sing năm 1985; Địa chỉ cư trú: Xóm A, xã Đ, huyện Y, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.
Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Phạm Thị T, sinh năm 1996. Nơi cư trú: Xóm Đ, xã M, huyện Y, tỉnh Nghệ An. Có mặt.
Bị đơn: Ông Nguyễn Thọ N, sinh năm 1974; Nơi cư trú: Xóm H, xã N, huyện Y, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Bà Ngô Thị H, sinh năm 1976; Nơi cư trú: Xóm H, xã N, huyện Y, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.
2. Bà Nguyễn Thị L1, sinh năm 1984; Nơi cư trú: Xóm A, xã Đ, huyện Y, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 14/6/2023, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông Lưu Quốc L và người đại diện theo ủy quyền thống nhất trình bày:
Ông và ông Nguyễn Thọ N có thoả thuận mua bán một phần diện tích tại thửa đất số: không ghi; tờ bản đồ số: không ghi; diện tích: 1000m2 đất (200 m2 đất ở + 800.0 m2 đất vườn). Nay đo đạc bản đồ địa chính là thửa đất số: 86; tờ bản đồ số: 05; diện tích: 2270 m2 có địa chỉ tại xóm H, xã N, huyện Y, tỉnh Nghệ An. Được Ủy ban nhân dân huyện Y cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có số phát hành M 378449 mang tên Nguyễn Thọ N.
Ngày 29/01/2022 hai bên đồng ý việc mua bán với giá là 680.000.000 (Sáu trăm tám mươi triệu đồng) và ông đã đặt cọc cho ông Nguyễn Thọ N 130.000.000 đồng (Một trăm ba mươi triệu đồng) trước, việc đặt cọc này được lập thành văn bản. Ông đã giao số tiền 130.000.000 đồng (Một trăm ba mươi triệu đồng) cho Ông Nguyễn Thọ N ngay sau khi ký hợp đồng đặt cọc. Tại hợp đồng đặt cọc hai bên thống nhất về các điều khoản có trong hợp đồng và phải thực hiện những điều khoản đã quy định. Đặc biệt là về quyền và nghĩa vụ của các bên. Đối với quyền và nghĩa vụ của bên nhận đặt cọc (ông Nguyễn Thọ N) “... từ chối giao dịch hoặc từ chối thực hiện nghĩa vụ dân sự (mục đích đặt cọc không thành công) thì bên B phải trả lại số tiền cọc và cộng thêm số tiền bằng 03 số tiền đã đặt cọc cho ông, cụ thể số tiền phải trả cả gốc và phạt hợp đồng là 490.000.000 đồng (Bốn trăm chín mươi triệu)”.
Ông và ông Nguyễn Thọ N thoả thuận trong thời gian 120 ngày kể từ ngày ký hợp đồng đặt cọc là ngày 29/1/2022 thì phải công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Tuy nhiên sau khi ký hợp đồng đặt cọc thì ông Nguyễn Thọ N không tiến hành làm thủ tục cấp đổi bìa hồng, chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông mà nghe nói lại thế chấp quyền sử dụng đất tại thửa đất trên vào Ngân hàng để vay tiền mặc dù trước đó ông Nguyễn Thọ N đã thế chấp quyền sử dụng đất tại thửa đất nêu trên để vay vốn ngân hàng, số tiền đặt cọc 130.000.000 đồng (Một trăm ba mươi triệu đồng) ông đưa cho ông Nguyễn Thọ N để rút bìa trong Ngân hàng ra để đi cấp đổi bìa hồng và làm thủ tục chuyển nhượng cho ông. Như vậy ông Nguyễn Thọ N đã rút bìa ra nhưng lại không thực hiện nghĩa vụ mà lại thế chấp tại Ngân hàng. Cho đến nay đã quá thời hạn rất lâu mà ông N vẫn chưa chịu làm hợp đồng chuyển nhượng và công chứng hợp đồng tại cơ quan có thẩm quyền. Ông L đã rất nhiều lần đề nghị ông N thực hiện công việc tại hợp đồng đặt cọc nhưng ông N không thực hiện công việc, cố tình kéo dài thời gian và cũng không trả lại số tiền gốc cho ông mặc dù đã quá thời hạn thoả thuận tại hợp đồng.
Việc không thực hiện hợp đồng đặt cọc của ông Nguyễn Thọ N đã ảnh hưởng đến quyền lợi của ông. Nên nay ông yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn Thọ N phải trả cho ông tổng số tiền là 490.000.000 đồng (Bốn trăm chín mươi triệu đồng).
Ông L cho rằng quá trình đòi nợ ông chỉ yêu cầu ông N trả lại số tiền cọc là 130.000.000 đồng một lần nhưng ông N cứ hứa mãi không chịu trả, ông đã phải đi lại rất nhiều và nhờ người đòi hộ nhưng không được. Ông N cũng nhiều lần viết giấy hẹn trả tiền và trả cả tiền lãi, tiền chi phí khác lên đến 150.000.000 đồng nhưng không thực hiện và có ý đồ trốn tránh nhằm chiếm đoạt số tiền trên của ông. Nay ông yêu cầu Tòa án xét xử nghiêm minh để bảo vệ quyền lợi cho ông.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà sơ thẩm ngày 29/02/2024 nguyên đơn, người đại diện theo ủy quyền của Nguyên đơn thống nhất xin rút một phần nội dung khởi kiện là xin rút số tiền yêu cầu xuống còn 390.000.000 đồng. Cụ thể là yêu cầu trả lại số tiền đã đặt cọc là 130.000.000 đồng và số tiền phạt cọc 260.000.000 đồng. Tổng số tiền yêu cầu ông N phải trả là 390.000.000 đồng (Ba trăm chín mươi triệu đồng).
Quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Nguyễn Thọ N vắng mặt nhiều lần trong quá trình tố tụng và phiên tòa nhưng cũng có ý kiến thông quan bản tự khai với nội dung thừa nhận ngày 29/01/2022 ông có nhận tiền đặt cọc mua đất của ông Lưu Quốc L là 130.000.000 đồng. Ông có đi làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để tách làm bìa tách cho ông L diện tích 1.000 m2 trong đó 200 m2 đất ở và 800 m2 đất vườn có sự chồng chéo, khó khăn như phải nhập bìa đó vào thửa ban đầu mới làm bìa đỏ mới khi đó mới tách bìa được nên mới làm bìa chậm. Khi làm bìa và nhập bìa cũng tốn kém nên ông mong muốn hai bên cùng tạo điều kiện khắc phục. Nếu ông L thu tiền cọc về thì anh cũng nhất trí nhưng mong được giúp đỡ cho trả chậm trong thời gian sớm nhất vì điều kiện kinh tế khó khăn. Hoặc mong cho phép bên ông N tiếp tục làm bìa.
Theo ông N việc yêu cầu trả 490.000.000 đồng là chưa hợp lý vì khi làm hợp đồng đã nêu nếu trong làm giấy quyền sử dụng đất mà vướng mắc thì Lưu Quốc L lấy lại tiền đặt cọc không phải chịu khoản phí nào nên ông N đề xuất được trả tiền cọc 130.000.000 đồng và một phần tiền lãi theo lãi suất Ngân hàng trong một năm sau tính từ tháng 5/2022 đến nay.
Ngoài ra ông N còn hứa trả 20.000.000 đồng vào ngày 28/9/2023; trả 50.000.000 đồng ngày 30/10/2023 số còn lại xin cho chậm vài tháng.
Tại văn bản đề ngày 28/9/2023 ông N có cam kết trả tiền đặt cọc đất của chú L như sau: Ngày 28/9/2023 trả 20.000.000 đồng; Ngày 30/10/2023 trả 50.000.000 đồng và Ngày 31/12/2023 trả 80.000.000 đồng. Tổng cộng số tiền là 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Chị Ngô Thị H là Vợ của anh N cũng vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng nhưng cũng có ý kiến đề nghị vắng mặt.
Tại bản tự khai cũng như tại phiên tòa bà Nguyễn Thị Lê là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án trình bày: Bà thừa nhận và khẳng định sự việc đúng như ông L khởi kiện. Theo bà L1 thì sau khi ông L đưa 130.000.000 đồng cho ông N thì ông N đi trả Ngân hàng, rút bìa ra và cầm bìa đến tìm ông L để làm hợp đồng đặt cọc vào ngày 29/01/2022 dưới sự chứng kiến của bà. Theo bà Lê S tiền đặt cọc này là tiền chung của bà và ông L nên đề nghị Tòa án xem xét giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật và nếu vụ án kéo dài đề nghị Tòa án xem xét giải quyết vụ án vắng mặt bà.
Tại báo cáo số 05 ngày 22/3/2024 của UBND xã N, huyện Y, tỉnh Nghệ An cung cấp thông tin về thửa đất như sau: Thửa đất số 86; tờ bản đồ số: 05; diện tích: 2270 m2 theo bản đồ 299 là thửa 495 diện tích 2000 m2 thuộc tờ bản đồ số 02 có địa chỉ tại xóm H, xã N, huyện Y, tỉnh Nghệ An. Trước đây là của ông Nguyễn Thọ T1 và bà Văn Thị T2 là bố, mẹ đẻ của anh Nguyễn Thọ N chia cho 02 anh em. Người anh tên là Nguyễn Thọ T3 và người em tên là Nguyễn Thọ N, sau đó người anh đi vào M xây dựng vùng kinh tế mới ở trong đó đến nay đã hơn 20 năm để lại cho em là Nguyễn Thọ N. Nguyễn Thọ N đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 378449 với diện tích 1000m2 đất trong đó 200 m2 đất ở và 800 m2 đất vườn. Phân diện tích tăng là 1227 m2 là sau khi đo đạc năm 2004 đã đo bao cả phần đất của anh trai Nguyễn Thọ T3, phần đất này chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và chưa có thủ tục pháp lý từ anh trai chuyển sang cho em Nguyễn Thọ N. Phần đất tăng thêm phù hợp với qui hoạch, hiện không có tranh chấp với ai.
Quá trình quản lý tại địa phương từ khi cấp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh Nguyễn Thọ N đến nay UBND xã N chưa nhận được hồ sơ gì của anh Nguyễn Thọ N về việc sang tên cho ai và đồng thời cũng chưa cấp đổi lại cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo số liệu đo năm 2004.
Tại biên bản xác minh ngày 26/3/2024 đại diện UBND xã N cũng cho rằng từ ngày 29/01/2022 đến nay không thấy ông Nguyễn Thọ N hoặc người được ông N ủy quyền đến UBND xã N để làm bất cứ thủ tục pháp lý gì liên quan đến cấp đổi lại cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc thủ tục chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ thửa đất nêu trên cho ai.
Tại công văn số 711/CNVPĐKĐĐ ngày 03/4/2024 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Y cho biết: Sau khi ra soát, kiểm tra hồ sơ lưu trữ chi nhánh không tìm thấy hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Nguyễn Thọ N đã có số phát hành M 378449 với diện tích 1000m2 tại xóm H, xã N, huyện Y, tỉnh Nghệ An. Do năm 2008 chi nhánh mới thành lập, quá trình lưu trữ, di chuyển hồ sơ bàn giao từ U chi nhánh VPĐKĐĐ huyện không được đầy đủ.
Từ năm 2015 đến nay, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành M 378449 mang tên Nguyễn Thọ N chưa có hồ sơ đăng ký thế chấp tại chi nhánh.
Kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghi án Thẩm phán. Hội đồng xét xử. Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điều 117, điều 119 và điều 328 Bộ luật Dân sự chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lưu Quốc L, buộc ông Nguyễn Thọ N có nghĩa vụ trả cho ông Lưu Quốc L và bà Nguyễn Thị Lê s1 tiền đã đặt cọc là 130.000.000 đồng và số tiền phạt cọc 260.000.000 đồng. Tổng số tiền ông N phải trả là 390.000.000 đồng. (Ba trăm chín mươi triệu đồng); Về nội dung xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đương sự đã tự nguyện rút nên đề nghị hội đồng áp dụng khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự đình chỉ việc giải quyết một phần nội dung khởi kiện này. Về án phí bị đơn phải chịu án phí, chi phí tố tụng theo quy định.
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ các chứng cứ, ý kiến của các đương sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: về thẩm quyền giải quyết vụ án, đây là vụ án tranh chấp hợp đồng đặt cọc là loại tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Tại thời điểm Nguyên đơn khởi kiện bị đơn đang cư trú tại huyện Y, tỉnh Nghệ An. Do đó, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An theo quy định tại khoản 3 Điều 26, khoản 1 điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về sự vắng mặt của đương sự: Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Nguyễn Thọ N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông vẫn Vắng mặt nhiều lần trong quá trình tố tụng và phiên tòa. Tuy vắng mặt nhưng ông cũng đã có ý kiến của mình về việc giải quyết tranh chấp do nguyên đơn khởi kiện.
Việc vắng mặt của ông N không có lý do từ hai lần trở lên nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành phiên tòa vắng mặt bị đơn.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Ngô Thị H vắng mặt nhưng đã có ý kiến đề nghị vắng mặt nên không ảnh hưởng đến quyền lợi và nghĩa vụ của bà H.
Về thời hạn, thời hiệu:
Các đương sự không có yêu cầu xem xét về thời hạn, thời hiệu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[2] Về nội dung: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc tranh chấp hợp đồng đặt cọc giữa nguyên đơn và bị đơn được xác lập vào ngày 29/01/2022 nên giao dịch này thuộc trường hợp áp dụng các quy định tại Bộ luật dân sự hiện hành và các văn bản qui phạm pháp luật liên quan để giải quyết.
Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn phải trả số tiền đã đặt cọc là 130.000.000 đồng và số tiền phạt cọc 260.000.000 đồng. Tổng số tiền ông N phải trả là 390.000.000 đồng.
Căn cứ hợp đồng đặt cọc đề ngày 29/01/2022 thể hiện bên đặt cọc ông Lưu Quốc L (Bên A) và bên nhận cọc ông Nguyễn Thọ N (Bên B) có thỏa thuận và ký kết hợp đồng đặt cọc với nhau để đảm bảo thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với thửa đất số vào sổ cấp giấy chứng nhận: số M 378449 với diện tích 1000m2 đất trong đó 200 m2 đất ở và 800 m2 đất TCLN tại xóm H, xã N, huyện Y, tỉnh Nghệ An. Số tiền đặt cọc là 130.000.000 đồng đã được ông L giao cho ông N vào ngày 29/01/2022, việc này ông N đã thừa nhận tại văn bản đề ngày 22/9/2023 tại Tòa án.
Xét hợp đồng đặt cọc là hợp đồng độc lập, có hiệu lực nhằm bảo đảm giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên. Theo đó các bên tham gia giao dịch đã đáp ứng đủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch, cũng như mục đích và hình thức của giao dịch.
Quá trình thực hiện hợp đồng ông N đã vi phạm cam kết đã thỏa thuận trong hợp đồng đặt cọc như: “Thời gian công chứng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong khoảng 120 ngày kể từ ngày ký hợp đồng này. Thời gian nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sở hữu nhà ở: 150 ngày.” và “Trong thời gian đặt cọc, bên B cam kết sẽ làm các thủ tục pháp lý để chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bên A”. Hiện nay đã quá thời hạn đặt cọc tại hợp đồng đã lâu nhưng sau nhiều lần thỏa thuận ông N không thực hiện cam kết và cũng không trả lại số tiền đặt cọc cho ông L.
Tại khoản 3 điều 4 của hợp đồng đặt cọc có nêu trường hợp lưu ý: “Hiện tại thửa đất 86 tờ bản đồ số 5 diện tích 2270 m2 có giáp ranh với thửa 117 tờ bản đồ số 5 diện tích 1802 thuộc quản lý xã N. Nhưng trên thực tế một phần thửa đất 117 là của gia đình anh Nguyễn Thọ N. Bây giờ nếu anh Nguyễn Thọ N đi xin cấp mới cấp đổi GCNQSDĐ mà một phần diện tích của thửa 117 vào bìa được thì hai bên (bên A và Bên B) bắt buộc phải làm theo hợp đồng. Nếu phần diện tích trên không chuyển vào GCNQSDĐ của anh Nguyễn Thọ N được thì anh Nguyễn Thọ N sẽ trả lại cho Lưu Quốc L số tiền đặt cọc là 130.000.000 đ mà không phải chịu bất kỳ một khoản phí nào.” Về nội dung lưu ý này do hai bên đã ký thỏa thuận, có thể có lợi cho bên nhận đặt cọc là ông N. Tuy nhiên điều kiện này đã không xảy ra là do lỗi hoàn toàn thuộc về ông N. Vì căn cứ vào báo cáo của UBND xã N cũng như biên bản xác minh của Tòa án khẳng định: Từ khi cấp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh Nguyễn Thọ N đến nay không thấy ông Nguyễn Thọ N hoặc người được ông N ủy quyền đến UBND xã N để làm bất cứ thủ tục pháp lý gì liên quan đến cấp đổi lại cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc thủ tục chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ thửa đất nêu trên cho ai.
Vì vậy, ông N cho rằng việc ông L yêu cầu trả 490.000.000 đồng là chưa hợp lý vì khi làm hợp đồng đã nêu nếu trong làm giấy quyền sử dụng đất mà vướng mắc thì Lưu Quốc L lấy lại tiền đặt cọc không phải chịu khoản phí nào nên ông N đề xuất được trả tiền cọc 130.000.000 đồng là không có cơ sở chấp nhận.
Hon nữa, tại công văn số 711/CNVPĐKĐĐ ngày 03/4/2024 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Y cho biết: Từ năm 2015 đến nay, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành M 378449 mang tên Nguyễn Thọ N chưa có hồ sơ đăng ký thế chấp tại chi nhánh.
Như vậy, từ các tài liệu và phân tích nêu trên có căn cứ khẳng định việc người nhận đặt cọc đã không thực hiện bất kỳ một cam kết nào trong hợp đồng đặt cọc nên dẫn đến việc không thể ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất như đã thỏa thuận là vi phạm thỏa thuận trong hợp đồng đặt cọc và cần xác định đây là lỗi hoàn toàn thuộc về bên nhận đặt cọc, tức lỗi 100% thuộc về ông Nguyễn Thọ N.
Vì vậy, việc ông Lưu Quốc L yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn Thọ N phải trả lại số tiền đặt cọc và phạt cọc theo hợp đồng đã thỏa thuận là có cơ sở và phù hợp với quy định tại các điều 116; điều 117; điều 119; điều 275 và điều 328 của Bộ luật dân sự.
Đối với nghĩa vụ liên đới: Việc ký hợp đồng đặt cọc là do một mình ông Nguyễn Thọ N ký, số tiền nhận cọc ông N sử dụng vào mục đích gì ông N và bà H là vợ của ông N cũng không trình bày nên không có căn cứ xem xét nghĩa vụ liên đới đối với bà Ngô Thị H là vợ của ông N. Đối với bà Nguyễn Thị L1 là vợ của ông L có trình bày số tiền đặt cọc là tiền chung của vợ chồng, ông L nhất trí và không có ý kiến gì nên cần căn cứ quy định tại các điều 27, điều 33 và điều 37 luật Hôn nhân & gia đình xác định quyền về tài sản trong giao dịch này là tài sản chung của vợ chồng ông Lưu Quốc L bà Nguyễn Thị Lê .
Về việc xin rút một phần nội dung khởi kiện đối với số tiền 100.000.000 đồng. Tại phiên tòa thấy nguyên đơn đã tự nguyện xin rút nên, Căn cứ vào khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử chấp nhận đình chỉ việc giải quyết một phần nội dung khởi kiện nêu trên.
Do đó căn cứ các điều 116; điều 117; điều 119; điều 275 và điều 328 của Bộ luật dân sự chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Cụ thể:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lưu Quốc L đối với ông Nguyễn Thọ N về việc tranh chấp hợp đồng đặt cọc.
[3] Về án phí: Nguyên đơn khởi kiện được chấp nhận toàn bộ nội dung khởi kiện nên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[4] Các vấn đề khác: Hội đồng xét xử không xem xét.
[5]. Về quyền kháng cáo:
Các đương sự có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm theo quy định tại các điều 271 và 273 Bộ luật tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26; khoản 1 Điều 35, Điều 39; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ điều 116; điều 117; điều 119; điều 275; điều 328 và điều 468 của Bộ luật dân sự. Căn cứ các điều 27, điều 33 và điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình. Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lưu Quốc L.
Buộc ông Nguyễn Thọ N phải có nghĩa vụ trả cho vợ chồng ông Lưu Quốc L và bà Nguyễn Thị Lê số tiền đã đặt cọc là 130.000.000 (Một trăm ba mươi triệu đồng) và tiền phạt cọc là: 260.000.000 đồng (Hai trăm sáu mươi triệu đồng). Tổng số tiền ông Nguyễn Thọ N phải trả cho ông L và bà Lê 1 390.000.000 (Ba trăm chín mươi triệu đồng).
2. Đình chỉ khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn phải trả số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng) theo yêu cầu khởi kiện ban đầu.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
’’Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6: Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự: thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự"
3. Về án phí: Buộc ông Nguyễn Thọ N phải chịu 19.500.000 (Mười chín triệu năm trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Trả lại cho ông Lưu Quốc L số tiền số tiền 11.800.000 đồng (Mười một triệu tám trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002323 ngày 03/11/ 2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Thành.
4. Quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa đều có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án được tống đạt, niêm yết hợp lệ.
Bản án 21/2024/DS-ST về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Số hiệu: | 21/2024/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 16/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về