Bản án 14/2024/DS-PT về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 14/2024/DS-PT NGÀY 12/01/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC

Ngày 12 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh B xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 128/2023/TB-TLVA ngày 26 tháng 10 năm 2023 về tranh chấp hợp đồng đặt cọc.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 26/2023/DS-ST ngày 30 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện S bị kháng cáo và kháng nghị.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 230/2023/QĐ-PT ngày 06 tháng 12 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Trần Quốc P, sinh năm 1991 (có mặt).

Địa chỉ: Khu phố P, thị trấn C, huyện P, B.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Hoàng Văn S - Công ty L thuộc Đoàn Luật sư thành phố H; Địa chỉ: Tầng D Tòa nhà H T, số A T, phường N, quận H, thành phố Hà Nội (có mặt)

- Bị đơn: Ông Nguyễn Quang H, sinh năm 1968.

Đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Bà Lê Thị Mỹ N, sinh năm 1965 (có mặt).

Địa chỉ: C Q, thị trấn P, T, B.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Thị Mỹ N, sinh năm 1965 (có mặt).

Địa chỉ: C Q, thị trấn P, T, B.

- Viện kiểm sát kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện S, tỉnh B kháng nghị theo Quyết định kháng nghị số 307/QĐ-VKS-DS ngày 11/9/2023.

- Người kháng cáo: Nguyên đơn anh Trần Quốc P.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn là ông Trần Quốc P trình bày:

Ông nhận chuyển nhượng 04 thửa đất liền kề của ông Nguyễn Quang H tại thôn A, xã C, P, B có giới cận là 04 mặt tiền, cụ thể: Đông giáp đường đường dân sinh 4m, tây giáp đường quy hoạch 12m, bắc giáp đường quy hoạch 14m, nam giáp đường quy hoạch 12m. Hai bên thống nhất giá chuyển nhượng 04 lô đất là 6.800.000.000 đồng. Đến ngày 04/6/2022 hai bên ký kết 04 hợp đồng đặt cọc, hẹn 15 ngày sau đóng cọc mốc giao đất. Tổng tiền cọc ông đặt cho 04 thửa đất là 500.000.000đ (đặt cọc cho 03 thửa đất số 147, tờ bản đồ số 5 diện tích 193,8m2 (trong Hợp đồng đặt cọc ghi nhầm diện tích là 197,9m2) theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CR 722445; thửa đất số 148, tờ bản đồ số 5 diện tích 171,1m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CR 722446; thửa đất số 149, tờ bản đồ số 5 diện tích 161,8m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CR 722447 - mỗi thửa là 100.000.000đ; đặt cọc thửa đất số 150, tờ bản đồ số 5 diện tích 197,9m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CR 722448 là 200.000.000đ), hẹn 30 ngày sau tiến hành chuyển nhượng quyền sử dụng đất, giao đất giao tiền. Thỏa thuận phạt cọc là gấp 10 lần, mục đích của việc thỏa thuận phạt cọc là để ông H không Phá cọc, vì ông có thiện chí mua 04 thửa đất trên. Sau đó ông H yêu cầu địa chính xã C, P, B đo đóng cọc mốc thì phát hiện một số người dân ở thửa đất kề bên lấn đất, cụ thể phần lấn đất ở phía giáp với đường dân sinh đã giảm xuống còn 0,5m. Đối tượng hợp đồng chuyển nhượng của ông là 04 thửa đất liền kề có 04 mặt tiền đường ô tô đi được nay 01 mặt tiền còn lại 0,5m là không đúng như thỏa thuận ban đầu. Ông H nhiều lần hứa với ông để phối hợp với UBND xã C giải quyết để bàn giao thửa đất như ban đầu hai bên thỏa thuận nhưng không thể thực hiện được. Sau đó, ông hẹn ông H đến ngày 16/11/2022 bàn giao 04 thửa đất liền kề như thỏa thuận trong 04 hợp đồng đặt cọc lập ngày 04/6/2022, nếu qua ngày 16/11/2022 ông H không bàn giao 04 thửa đất như thỏa thuận để tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền dụng đất đối với 04 thửa đất trên thì ông yêu cầu ông H trả lại cho ông số tiền đặt cọc là 500.000.000đ và phạt cọc gấp 03 lần. Đến ngày 16/11/2022, ông đã nhận được 04 thửa đất trên từ ông H và UBND xã C, huyện P. Do thời gian ông H chậm giao đất nên nay ông chưa chuẩn bị đủ tiền để tiếp tục thực hiện 04 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông H. Ông hẹn đến ngày 30/3/2023 tiếp tục giao số tiền còn lại là 6.300.000.000đ và hoàn tất 04 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với 04 thửa đất trên. Tuy nhiên, đến ngày 30/3/2023 ông H, bà N không chấp nhận cho ông nhận chuyển nhượng thửa đất từng lô (tức là nhận chuyển nhượng 01 thửa đất số 147 trước, rồi từ từ chuyển nhượng 03 thửa đất khác sau), nên ông không tiếp tục thực hiện 04 hợp đồng đặt cọc trên. Nay ông yêu cầu hủy bỏ 04 hợp đồng đặt cọc trên, xử lý hậu quả theo như các hợp đồng đặt cọc lập ngày 04/6/2022, cụ thể yêu cầu ông Nguyễn Quang H phải trả lại ông tiền cọc 500 triệu đồng và phạt cọc gấp 10 lần.

Bị đơn ông Nguyễn Quang H trình bày:

Ông thống nhất như lời trình bày của ông P về giá chuyển nhượng 04 thửa đất, vị trí, diện tích 04 lô đất chuyển nhượng cũng như thời gian lập 04 hợp đồng đặt cọc, số tiền đặt cọc mà ông H đã nhận từ ông P. Khi đặt cọc hai bên thống nhất 30 ngày sau tiến hành giao đủ tiền và giao đất. Tiền phạt cọc hai bên thỏa thuận trong hợp đồng gấp 10 lần, mục đích của việc thỏa thuận phạt cọc là để ông H không phá cọc vì hai bên có thiện chí mua bán. Nguồn gốc 04 thửa đất này ông H mua đấu giá vào tháng 9/2019, đã nộp tiền đủ nhưng chưa được bàn giao đất, chưa đóng cọc mốc cho ông H. 04 thửa đất trên nằm biệt lập không liên quan tới các thửa đất khác vì được ngăn cách 04 đường đi. Sau đó, ông H yêu cầu địa chính xã C, P, B đo đóng cọc mốc thì phát hiện người dân ở thửa đất đối diện lấn đất lấn ra đường dân sinh nên chiều ngang của đường giảm xuống không còn đủ 4m. Đến ngày 16/11/2022 ông H và UBND xã C, huyện P đã tiến hành giao nhận 04 thửa đất trên cho ông P. Hai bên thỏa thuận lại đến ngày 30/3/2023 hoàn tất thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với 04 thửa đất trên và giao số tiền còn lại là 6.300.000.000đồng. Tuy nhiên, đến ngày 30/3/2023 ông P không thực hiện việc chuyển nhượng cùng lúc 04 thửa đất trên theo 04 hợp đồng đặt cọc ngày 04/6/2022, mà yêu cầu giao tiền để nhận chuyển nhượng đối với thửa đất 147; ông H cũng chấp nhận cho ông P nhận chuyển nhượng từng thửa, nhưng bắt đầu từ thửa trong cùng (thửa số 150), ông P không chịu, vẫn đòi chuyển nhượng 147 (thửa lớn nhất 3 mặt giáp đường. Các thửa đất còn lại thì ông P không chịu nhận chuyển nhượng. Nay ông P yêu cầu hủy bỏ 04 hợp đồng đặt cọc lập ngày 04/6/2022 thì ông H chấp nhận nhưng ông không có lỗi nên ông P phải mất tiền cọc đồng thời không đồng ý yêu cầu phạt cọc gấp 10 lần của ông P.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Lê Thị Mỹ N trình bày: Bà là vợ của ông H, bà thống nhất như trình bày và yêu cầu của ông H.

Bản án dân sự sơ thm số 26/2023/DS-ST ngày 30 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện S đã quyết định:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Quốc P:

- Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về việc hủy bỏ 04 hợp đồng đặt cọc ngày 04/6/2022 giữa ông Trần Quốc P với ông Nguyễn Quang H với tổng số tiền cọc là 500.000.000 đồng, về việc đảm bảo cho việc chuyển nhượng 04 thửa đất số 150, tờ bản đồ số 5, diện tích 197,9m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CR 722448; thửa đất số 147, tờ bản đồ số 5 diện tích 193,8m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CR 722445; thửa đất số 148, tờ bản đồ số 5 diện tích 171,1m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CR 722446; thửa đất số 149, tờ bản đồ số 5 diện tích 161,8m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CR 722447; các thửa đất đều tọa lạc tại xã C, huyện P, tỉnh B.

- Buộc ông Nguyễn Quang H có nghĩa vụ hoàn trả cho ông Trần Quốc P số tiền 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng) về khoản hoàn trả tiền cọc 100.000.000đồng và phạt cọc 100.000.000đồng do không thực hiện thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 147, tờ bản đồ số 5 diện tích 193,8m2.

- Ông Nguyễn Quang H được sở hữu số tiền 400.000.000đồng về khoản tiền cọc từ 03 hợp đồng đặt cọc ký ngày 04/6/2022 do ông P không thực hiện thỏa thuận nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với các thửa đất số 148, 149 và 150 đều thuộc tờ bản đồ số 5.

- Không chấp nhận yêu cầu của ông Trần Quốc P về việc buộc ông H phải trả lại tiền cọc 500.000.000đồng và phạt cọc gấp 10 lần; không chấp nhận yêu cầu của ông H cho rằng bên nguyên đơn vị phạm thỏa thuận không chịu đồng thời nhận chuyển nhượng 04 thửa đất nên phải mất tiền cọc 500.000.000đ, không chấp nhận phạt cọc vì không Phù hợp với thực tế và quy định pháp luật.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định án phí dân sự sơ thẩm và quyền kháng cáo của các bên đương sự.

Ngày 11 tháng 9 năm 2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện S có Quyết định kháng nghị số 307/QĐ-VKS-DS đối với bản án số 26/2023/DS- ST ngày 30/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh B đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh B sửa Bản án dân sự sơ thẩm theo hướng tăng mức phạt cọc lên gấp 3 lần số tiền đặt cọc trong hợp đồng là 300.000.000đồng.

Ngày 08 tháng 9 năm 2023, nguyên đơn anh Trần Quốc P kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm hoặc buộc vợ chồng ông H phải chịu phạt tiền cọc gấp 10 lần theo như thỏa thuận.

Tại phiên Tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên nội dung đơn khởi kiện và yêu cầu kháng cáo; Viện kiểm sát rút nội dung kháng nghị.

Tại phiên tòa người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, hủy án sơ thẩm với lý do vi phạm thủ tục tố tụng.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu: Trong quá trình tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng; đồng thời đề nghị HĐXX đình chỉ nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát; không chấp nhận nội dung kháng cáo của nguyên đơn; giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Tại phiên tòa Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh B rút toàn bộ nội dung kháng nghị. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 289 Bộ luật Dân sự, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với nội dung kháng nghị của Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân huyện S.

[ 1.2] Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm các bên đương sự trình bày thống nhất thời gian, nội dung, số tiền và đối tượng thực hiện hợp đồng đặt cọc nên không cần thiết phải triệu tập người làm chứng ông Trần Văn H1 tham gia phiên tòa phúc thẩm theo yêu cầu của nguyên đơn.

[1.3] Hợp đồng đặt cọc là do ông Trần Quốc P ký kết với ông Nguyễn Quang H, ông P là người giao tiền cọc để được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ vợ chồng ông Nguyễn Quang H nên Tòa án cấp sơ thẩm không đưa vợ ông P vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án không làm ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của vợ chồng ông P.

[2] Xét nội dung kháng cáo của nguyên đơn ông Trần Quốc P, thấy rằng:

Giữa ông Trần Quốc P với ông Nguyễn Quang H thỏa thuận là ông H sẽ chuyển nhượng quyền sử dụng 04 thửa đất tọa lạc tại xã C, huyện P, tỉnh B cho ông P gồm: Thửa đất số 150, tờ bản đồ số 5, diện tích 197,9m2; thửa đất số 147, tờ bản đồ số 5, diện tích 193,8m2; thửa đất số 148, tờ bản đồ số 5, diện tích 171,1m2; thửa đất số 149, tờ bản đồ số 5, diện tích 161,8m2 với giá 6.800.000.000 đồng. Ngày 04/6/2022 ông Trần Quốc P với ông Nguyễn Quang H ký kết 04 hợp đồng đặt cọc để đảm bảo cho việc chuyển nhượng 04 thửa đất trên. Tổng tiền cọc ông P đặt cọc cho 04 thửa đất là 500.000.000đ (đặt cọc cho 03 thửa đất số 147; thửa đất số 148; thửa đất số 149 - mỗi thửa là 100.000.000đ; đặt cọc thửa đất số 150 là 200.000.000đ), thỏa thuận tiền phạt cọc gấp 10 lần và 30 ngày sau hai bên tiến hành hoàn tất hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và ông P giao đủ tiền số tiền còn lại cho ông H. Sau 30 ngày ông P và ông H thống nhất kéo dài thời hạn thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng 04 thửa đất trên đến ngày 30/3/2023. Đến ngày 30/3/2023 ông H đã theo thỏa thuận giao 04 thửa đất nói trên đồng thời yêu cầu ông P thực hiện các thủ tục chuyển nhượng nhưng ông P không đồng ý mà chỉ đồng ý nhận chuyển nhượng thửa đất số 147, tờ bản đồ số 05 (với tiền cọc 100.000.000 đồng), 03 thửa đất số 148, 149 và 150 thì không đồng ý nhận chuyển nhượng mà hẹn nhận chuyển nhượng lần lượt vào thời gian sau. Hội đồng xét xử thấy rằng: Tuy hợp đồng đặt cọc 4 thửa đất nói trên được lập thành 4 bản riêng biệt nhưng cả ông P và ông H thống nhất xác lập vào cùng một thời gian là ngày 04/6/2022, thời gian hai bên thỏa thuận hoàn tất hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và giao đủ tiền là 30 ngày kể từ ngày 04/6/2022. Sau đó, vì lý do khách quan nên ông P và ông H thỏa thuận gia hạn đến ngày 30/8/2022 và tiếp tục gia hạn đến ngày 30/3/2023 sẽ hoàn tất 04 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và giao đủ tiền. Như vậy, kể từ khi lập hợp đồng đặt cọc và qua các lần gia hạn thời gian hoàn tất hợp đồng các bên đã thể hiện rõ ý chí là lập hợp đồng chuyển nhượng 04 thửa đất cùng một thời gian. Tại Điều 3 của 04 hợp đồng đặt cọc quy định: “...Bên A nhận đủ tiền cọc sẽ cùng với bên B làm thủ tục công chứng, chuyển nhượng tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền...”, không có thỏa thuận nào quy định về việc nhận chuyển nhượng thửa số 147 trước, còn 03 thửa 148, 149 và 150 sẽ chuyển nhượng sau. Mặt khác, tại Biên bản phiên tòa sơ thẩm ngày 30/8/2023 ông P khai hai bên thỏa thuận đến ngày 30/3/2023 chuyển nhượng cùng lúc 4 lô đất là đúng (BL 185). Do đó, việc ông P yêu cầu được lập hợp đồng chuyển nhượng thửa đất 147 trước, các thửa đất còn lại lập hợp đồng chuyển nhượng sau là không đúng như ý chí thỏa thuận ngay từ khi lập hợp đồng đặt cọc của hai bên và cũng không được sự đồng ý của ông H nên ông P không tiếp tục thực hiện 04 hợp đồng đặt cọc trên mà yêu cầu hủy bỏ 04 hợp đồng đặt cọc trên là lỗi hoàn toàn của ông P nên ông P phải chịu mất tiền cọc, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng ông H có lỗi không chịu lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 147 nên phải chịu phạt cọc đối với tiền cọc của thửa đất 147 là không đúng theo các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ và ý chí khi giao kết hợp đồng đặt cọc của ông P và ông H. Tuy nhiên, sau khi xét xử sơ thẩm ông H chấp nhận nội dung bản án sơ thẩm, không kháng cáo đối với nội dung này nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.

[3] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không có căn cứ chấp nhận nội dung kháng cáo của ông P; giữ nguyên nội dung bản án sơ thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Án phí dân sự phúc thẩm: Theo quy định tại khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, ông Trần Quốc P phải chịu 300.000 đồng.

[6] Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn phát biểu luận cứ đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ kháng cáo của nguyên đơn, hủy Bản án sơ thẩm là không Phù hợp với nhận định của Tòa nên không được chấp nhận.

[7] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án đề nghị: Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với nội dung kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện S; không chấp nhận nội dung kháng cáo nguyên đơn ông Trần Quốc P, giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp với nhận định của Tòa.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 328 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 4 Điều 26, khoản 1 Điều 29, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với nội dung kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện S.

2. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Trần Quốc P. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2023/DS-ST ngày 30 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh B.

3. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Quốc P.

4. Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về việc hủy bỏ 04 hợp đồng đặt cọc ngày 04/6/2022 giữa ông Trần Quốc P với ông Nguyễn Quang H đối với 04 thửa đất số 147, 148, 149 và 150 thuộc tờ bản đồ số 5 tại xã C, huyện P, tỉnh B.

5. Buộc ông Nguyễn Quang H phải hoàn trả cho ông Trần Quốc P 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng) tiền đặt cọc đối với thửa đất số 147, tờ bản đồ số 5 tọa lạc tại tại xã C, huyện P, tỉnh B và 100.000.000đồng (một trăm triệu đồng) tiền phạt cọc, tổng cộng: 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng).

6. Ông Nguyễn Quang H được sở hữu số tiền 400.000.000đồng (bốn trăm triệu đồng) về khoản tiền cọc từ 03 hợp đồng đặt cọc ký ngày 04/6/2022 đối với các thửa đất số 148, 149 và 150, tờ bản đồ số 5 tọa lạc tại xã C, huyện P, tỉnh B.

7. Không chấp nhận yêu cầu của ông Trần Quốc P về việc buộc ông H phải trả lại tiền cọc 500.000.000 đồng và phạt cọc gấp 10 lần.

8. Về án phí dân sự:

8.1. Án phí dân sự sơ thẩm:

Ồng Trần Quốc P phải chịu án phí sơ thẩm với số tiền 113.300.000đồng (Một trăm mười ba triệu ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền 57.150.000đồng tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp theo biên lai số 0007666 ngày 14/02/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện S; ông P còn phải nộp tiếp số tiền 56.150.000đồng (Năm mươi sáu triệu một trăm năm mươi nghìn đồng).

Ông Nguyễn Quang H phải chịu 10.000.000đồng (Mười triệu đồng).

8.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Trần Quốc P phải chịu 300.000đồng nhưng được trừ 300.000đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0007950 ngày 12/9/2023 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện S.

9. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

10. Về quyền, nghĩa vụ thi hành án:

10.1. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015.

10.2. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

11. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

90
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 14/2024/DS-PT về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

Số hiệu:14/2024/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Định
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;