TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH Đ
BẢN ÁN 09/2024/DS-PT NGÀY 16/01/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VAY TÀI SẢN
Trong 2 ngày 11 và 16 tháng 01 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đ, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 126/2023/TLPT- DS ngày 10 tháng 7 năm 2023 về việc “Tranh chấp Hợp đồng dân sự vay tài sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 48/2023/DS-ST ngày 02/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Đ bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 193/2023/QĐ-PT ngày 01 tháng 8 năm 2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 456/ 2 0 2 3 /QĐ-PT ngày 21 tháng 8 năm 2023 của Toà án nhân dân tỉnh Đ giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Vợ chồng ông Lê Trần A, sinh năm 1969 và bà Phạm Thị T, sinh năm 1976; Cùng trú tại: Thôn V, xã Hoài Đức, huyện H, tỉnh Đ.
Bà Th có mặt.
Đại diện theo ủy quyền của ông A: Ông Nguyễn Doãn T, sinh năm 1958; Cư trú tại xã Hoài Đức, Lâm Hà, Đ. Có mặt.
2. Bị đơn: Bà Trương Thị H, sinh năm 1975; Trú tại: Số 111, tổ dân phố Quảng Đức, Thị trấn V, huyện H, tỉnh Đ. Vắng mặt
Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Phạm Thị T
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nguyên đơn ông Lê Trần A, Phạm Thị T trình bày:
Bà Trương Thị H là chủ đại lý bán thức ăn chăn nuôi gia súc tại địa chỉ: Số 111, Tổ dân phố Quảng Đức, Thị trấn V, huyện H, tỉnh Đ. Từ năm 2012, vợ chồng ông A, bà Th có mua cám các loại của bà H về chăn nuôi heo (Lợn). Mỗi khi cần ông A, bà Th gọi điện, bà H sẽ cho xe chở cám vào. Hai bên đều tạo điều kiện cho nhau nên mối quan hệ trở nên thân thiết. Bà H nói với ông A, bà Th nếu có tiền thì đưa cho bà H vay, bà H trả lãi sòng phẳng. Tin tưởng bà H nên vợ chồng ông A, bà Th đã gom tiền bán heo và tiền bán cà phê đưa cho bà H nhiều lần. Khi thì 100 triệu, khi thì 300, 500 triệu đồng. Tiền lãi thời gian đầu bà H trả cho ông A, bà Th là 1,5%/tháng, sau đó hạ xuống dần. Bà H tính lãi bao nhiêu thì vợ chồng ông A, bà Th cũng đồng ý bấy nhiêu. Tiền lãi hàng tháng được trừ vào tiền cám. Mọi giao dịch tính toán chỉ có bà Th và bà H làm việc với nhau. Cụ thể những lần như sau:
+ Ngày 23/5/2018, bà Th cho bà H vay số tiền: 150.000.000 đồng.
+ Ngày 9/7/2018, bà Th cho bà H vay số tiền: 300.000.000 đồng.
+ Ngày 01/3/2019, bà Th cho bà H vay số tiền: 800.000.000đồng
+ Ngày 04/7/2019, bà Th mang ra nhà bà H cho bà H vay số tiền: 550.000.000đồng
+ Ngày 12/6/2019, bà Th cho bà H vay số tiền 300.000.000 đồng.
+ Ngày 19/11/2019, bà Th cho bà H vay số tiền: 250.000.000 đồng.
+ Ngày 02/12/2019, bà Th cho bà H vay số tiền 100.000.000đồng.
Đến ngày 01/02/2022, bà H có chốt lại công nợ ghi vào sổ của bà Th là bà H nợ bà Th số nợ gốc 2.300.000.000đồng. Trong đó số tiền gốc bà H vay 2.300.000.000đồng. Số tiền cám vợ chồng ông A, bà Th mua đến ngày 01/02/2022 là 349.444.000đồng. Bà H tính tiền lãi 02 tháng của vợ chồng ông A, bà Th đối với khoản tiền bà H vay là 64.500.000đồng, cấn trừ số tiền lãi vào số tiền vợ chồng ông A, bà Th mua cám, còn lại là 284.944.000đồng. Số tiền gốc bà H vay là 2.300.000.000đồng trừ đi số tiền cám ông A, bà Th nợ thì bà H còn nợ ông A, bà Th số tiền là 2.015.000.000đồng.
Ngày 03/3/2022, bà H đã trả cho vợ chồng ông A, bà Th số tiền là 515.000.000đồng, số tiền bà H còn nợ lại là 1.500.000.000đồng.
Ngày 03/02/2022, vợ chồng ông A, bà Th tiếp tục lấy cám của bà H.
Ngày 12/5/2022, bà H tính sổ, số tiền cám ông A, bà Th lấy quy ra tiền là 209.342.000đồng. Số tiến gốc bà H còn nợ lại là 1.500.000.000đồng, trừ số tiền cám ông A, bà Th nợ, còn lại bà H nợ vợ chồng ông A, bà Th là 1.291.000.000đồng.
Số tiền lãi 2 tháng (mức lãi suất bà H tính cho vợ chồng ông A, bà Th khoảng 0,45%/tháng) của khoản tiền bà H vay là 12.900.000đồng.
Cộng cả số tiền lãi lại thì bà H còn nợ vợ chồng ông A, bà Th số tiền 1.319.000.000đồng.
Sau ngày này vợ chồng ông A, bà Th vẫn tiếp tục lấy cám của bà H.
Đến ngày 14/6/2022, bà H tính sổ, số tiền cám vợ chồng ông A, bà Th lấy là 96.132.000đồng, trừ tiền lãi 2 tháng, bà H tính là 12.490.000đồng, còn lại là 83.642.000đồng.
Sau ngày này, do heo bị dịch bệnh nên ông A, bà Th nghỉ không nuôi heo nữa, ông A, bà Th có nói bà H tính toán trả lại cho ông A, bà Th số tiền gốc.
Ngày 06/9/2022, bà H tính sổ. Theo đó bà H lấy 70.000.000đồng trong tổng số tiền gốc bà H nợ ông A, bà Th là 1.319.000.000đồng để trừ sang tiền cám ông A, bà Th nợ (1.319.000.000đồng - 70.000.000đồng) = 1.249.000.000đồng.
Số tiền cám ông A, bà Th nợ bà H là 83.642.000đồng – 70.000.000đồng lấy từ tiền gốc, còn lại là 13.642.000đồng. Sau khi trừ hết tiền cám thì số tiền bà H còn nợ ông A, bà Th là: 1.249.000.000đồng - 13.642.000đồng = 1.235.358.000đồng.
Như vậy số tiền nợ gốc bà H còn nợ lại ông A, bà Th sau khi hai bên đã tính còn lại là 1.235.358.000đồng. Ông A, bà Th yêu cầu bà H trả cho vợ chồng ông A, bà Th nhưng bà H không chịu trả, kiếm mọi lý do để khất lần, trốn tránh trả nợ cho vợ chồng ông A, bà Th.
Nay, vợ chồng ông A, bà Th khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà H phải trả cho vợ chồng ông A, bà Th số tiền nợ gốc là 1.235.358.000đồng (Một tỷ hai trăm ba mươi lăm triệu ba trăm năm mươi tám ngàn đồng). Ông A, bà Th không yêu cầu trả lãi.
Bị đơn bà Trương Thị H đã được Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, triệu tập làm việc, thông báo tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho bà H nhưng bà H không hợp tác, không ký nhận văn bản tố tụng của Tòa án, không đến Tòa án làm việc, không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì và không có lời khai trong hồ sơ vụ án.
Tòa án tiến hành hòa giải nhưng không thành.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 48/2023/DS-ST ngày 02 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện H, tuyên xử:
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vợ chồng ông Lê Trần A, bà Phạm Thị T về việc yêu cầu bị đơn bà Trương Thị H phải trả cho vợ chồng ông Lê Trần A, bà Phạm Thị T số tiền là 1.235.358.000đ (Một tỷ hai trăm ba mươi lăm triệu ba trăm năm mươi tám ngàn đồng).
Ngoài ra, Bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo và trách nhiệm thi hành án của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 05/6/2023, bà Phạm Thị T kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm, đề nghị cấp phúc thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa hôm nay:
Nguyên đơn bà Phạm Thị T vẫn giữ nguyên kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ phát biểu: Về thủ tục tố tụng Thẩm phán, Hội đồng xét xử thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, các đương sự cũng đã chấp hành đầy đủ giấy báo của Tòa án, thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình tại phiên tòa phúc thẩm. Về nội dung: Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án và qua tranh tụng công khai tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn bà Trương Thị H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ 02 lần nhưng vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 để tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.
[2] Về quan hệ tranh chấp: Xuất phát từ việc vợ chồng ông A, bà Th cho bà H vay tiền nhiều lần, sau đó ông, bà có mua một số cám của bà H về chăn nuôi heo. Sau khi trừ đi số tiền cám ông, bà mua của bà H thì hiện bà H còn nợ ông, bà số tiền 1.235.358.000đ không trả nên ông bà khởi kiện yêu cầu bà H trả số nợ còn lại là 1.235.358.000đ. Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp Hợp đồng dân sự vay tài sản” là có căn cứ.
[3] Xét kháng cáo của nguyên đơn bà Phạm Thị T thấy rằng:
[3.1] Qua xem xét các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Bị đơn bà H có vay của nguyên đơn nhiều lần, cụ thể: Ngày 09/7/2018 vay 300.000.000 đồng; Ngày 01/3/2019 vay 800.000.000đồng; Ngày 04/7/2019 vay 550.000.000đồng; Ngày 12/6/2019 vay 300.000.000đồng; Ngày 19/11/2019 vay 250.000.000đồng; Ngày 02/12/2019 vay số tiền 100.000.000đồng. Đến ngày 01/02/2022, hai bên chốt nợ, tổng cộng bà H còn thiếu nợ bà Th số tiền vay là 2.300.000.000đ.
Theo hai cuốn sổ ghi nợ và mua bán hàng mà nguyên đơn cung cấp thể hiện: Ngày 09/7/18 chị đưa 300(tr); ngày 01/3/19 700(tr) + 100(tr); ngày 12/6/19 : 200 + 100 thành 300; ngày 04/7/19 chị Th đưa chị H 550(tr); ngày 19/11/19 DL của chị đưa tc 250(tr) ; 02/12/19 DL chị Th đưa 100 (tr). Tại mặt sau (bút lục 36) thể hiện nội dung: Gốc 2.300.000.000đ – 284.944.000đ = 2.015.000.000đ, sau đó trừ đi 515.000 (tr) còn lại 1.500.000.000đ.
[3.2] Quyển sổ do nguyên đơn cung cấp thể hiện giữa nguyên đơn và bị đơn có vay mượn tiền và nguyên đơn có mua cám của bị đơn, trong đó thể hiện số lượng, đơn giá, chủng loại cám, làm phép tính số học cộng trừ và phép tính nhân, lấy số tiền gốc trừ đi số tiền cám, bị đơn còn nợ nguyên đơn số tiền 1.235.358.000đ theo đơn khởi kiện của nguyên đơn là hoàn toàn lô gic, phù hợp về mặt số liệu.
[3.3] Trong sổ mua bán hàng hóa mặc dù không có chữ ký của bị đơn. Tuy nhiên đối chiếu nội dung sổ mua bán hàng hóa với lời trình bày của bà Th; Xét thấy phù hợp với tập tục giữa người mua, người bán tại địa phương thường không ghi nội dung vay mượn tiền mà chỉ chốt số tiền giao và sau đó trừ đi giá trị tiền hàng để xác định số tiền còn nợ lại; Đồng thời trùng khớp với lời trình bày của bà Th đối với số tiền mà bà H mượn từ năm 2019 đến năm 2022. Như vậy việc bà Th có cho bà H vay số tiền tổng cộng 2.300.000.000đ và sau đó trừ đi tiền mua cám, còn nợ lại là số tiền 1.235.358.000đ như lời trình bày của bà Th là có căn cứ.
[3.4] Bị đơn bà H không hợp tác, không cung cấp tài liệu chứng cứ, không đến Tòa làm việc đối chất làm rõ được việc bà H có nợ ông A, bà Th như nguyên đơn khai hay không. Tuy nhiên sau khi xét xử sơ thẩm, nguyên đơn kháng cáo và cung cấp nhiều chứng cứ có chữ viết của bà H; mở rộng thu thập chứng cứ là chữ ký và chữ viết của bà H, tiến hành đối chiếu với sổ gốc và tiến hành giám định.
[3.5] Tại kết luận giám định số 5886/KL-KTHS ngày 25/10/2023 của Phân viện kỹ thuật hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Chữ viết trên tài liệu cần giám định ký hiệu A so với chữ viết dùng làm mẫu so sánh đứng tên Trương Thị H trên các tài liệu ký hiệu từ M1 đến M6 là do cùng một người viết ra.
[4] Từ những phân tích trên, kháng cáo của nguyên đơn bà Phạm Thị T là có cơ sở chấp nhận, cần sửa Bản án sơ thẩm theo hướng đã nhận định trên. [5] Về án phí:
Do kháng cáo được chấp nhận nên nguyên đơn bà Phạm Thị T không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định.
Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên cần buộc bị đơn bà Trương Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền phải thanh toán cho nguyên đơn là: 1.235.358.000đ = 36.000.000 + (435.358.000 x 3%) = 49.060.000đ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 02 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự.
Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Phạm Thị T, sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 48/2023/DS-ST ngày 02/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện H.
T xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Trần A và bà Phạm Thị T về việc “Tranh chấp về Hợp đồng dân sự vay tài sản” đối với bị đơn bà Trương Thị H.
Buộc bà Trương Thị H trả cho Lê Trần A và bà Phạm Thị T số tiền là 1.235.358.000đ (Một tỷ hai trăm ba mươi lăm triệu ba trăm năm mươi tám ngàn đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
2. Về án phí:
Bà Phạm Thị T không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả cho bà Phạm Thị Th số tiền 300.000đ đã tạm nộp án phí theo Biên lai thu số 0013590 ngày 09/6/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H.
Buộc bà Trương Thị H phải chịu số tiền 49.060.000đ (Bốn mươi chín triệu không trăm sáu mươi ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả cho vợ chồng ông Lê Trần A, bà Phạm Thị T số tiền đã nộp tạm ứng án phí sơ thẩm là 24.530.000đ (Hai mươi bốn triệu năm trăm ba mươi ngàn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0010746 ngày 11 tháng 10 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H.
Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án 09/2024/DS-PT về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản
Số hiệu: | 09/2024/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 16/01/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về