Bản án về tranh chấp hợp đồng dân sự, hợp đồng mua bán số 13/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 13/2021/DS-ST NGÀY 26/03/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ, HỢP ĐỒNG MUA BÁN

Ngày 26/3/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cao Lãnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 857/2020/TLST-DS, ngày 17 tháng 11 năm 2020 về việc: “Tranh chấp hợp đồng dân sự - hợp đồng mua bán” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2020/QĐXXST-DS ngày 23/02/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 33/2021/QĐST-DS ngày 12/3/2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Công ty A.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Phúc T - Chức vụ Chủ tịch công ty.

Địa chỉ: ấp Tân Cường, xã PC, huyện TN, tỉnh Đồng Tháp.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Phan Thị Thảo Q, sinh năm 1996.

Địa chỉ: 70, Quốc lộ 30, phường MP, TP Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Công ty A là Luật sư Phạm Hoàng Đ là thành viên Công ty Luật hợp danh A – Chi nhánh Đồng Tháp. Địa chỉ: Số 70 Quốc lộ 30, phường MP, thành phố B, tỉnh Đồng Tháp.

- Bị đơn: Ông Phạm Văn P, sinh năm 1979.

Địa chỉ: ấp 2, xã ML, huyện B, tỉnh Đồng Tháp.

(Bà Q, luật sư Đ có mặt; ông P vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là bà Phan Thị Thảo Q và luật sư Phạm Hoàng Đ thống nhất trình bày:

Nguyên vào ngày 12/4/2017, Công ty A (gọi tắt là Công ty M) và ông Phạm Văn P có ký kết Hợp đồng mua bán thức ăn thủy sản số 29.CV/2017/MK-NNK có nội dung như sau:

- Công ty M bán các loại thức ăn thủy sản do Công ty M sản xuất mang nhãn hiệu Hoàng Long cho ông P.

- Ông P có trách nhiệm thanh toán cho Công ty M theo hình thức trả chậm định mức nợ tối đa là 2.000.000.000 đồng (Hai tỷ đồng).

- Sau khi hết định mức 2.000.000.000 đồng, ông P tiếp tục nhận hàng thì phải thanh toán cho Công ty trước khi nhận hàng.

- Ông P có thể thanh toán công nợ cho Công ty M sau mỗi đợt thu hoạch cá.

- Công nợ 2.000.000.000 đồng sẽ được ông P hoàn trả cho Công ty M khi hết năm để tiếp tục ký hợp đồng mới. (Ngày thanh toán cuối cùng:

12/4/2018).

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty M đã giao hàng cho ông P theo đúng quy định hợp đồng, tuy nhiên ông P đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán đối với Công ty M. Từ ngày 31/5/2017 đến ngày 30/11/2017, vào cuối mỗi tháng, Công ty M và ông P có tiến hành đối chiếu công nợ thể hiện số tiền ông P còn nợ Công ty M. Tính đến ngày thanh toán cuối cùng của Hợp đồng (tức là ngày 12/4/2018), ông P còn nợ Công ty M số tiền mua thức ăn nuôi cá là 252.500.000 đồng.

Sau đó, đến ngày 04/5/2018 ông P đã thanh toán cho Công ty M bằng hình thức chuyển khoản với số tiền là 25.000.000 đồng. Ngày 07/5/2018, ông P tiếp tục thanh toán cho Công ty bằng hình thức chuyển khoản với số tiền là 30.000.000 đồng và kể từ ngày 07/5/2018 thì ông P không thanh toán bất kỳ số tiền nào cho Công ty M.

Ngày 04/9/2019, Công ty M có gửi Thông báo cho ông P, theo đó ông P có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty M với số tiền là 197.500.000 đồng trong vòng 15 ngày kể từ ngày ông P nhận được thông báo này.

Sau đó, ông P đã chuyển khoản cho Công ty M tổng số tiền là 130.000.000 đồng, trong đó: 50.000.000 đồng (chuyển ngày 09/3/2020); 40.000.000 đồng (chuyển ngày 20/4/2020); 40.000.000 đồng (chuyển ngày 05/5/2020). Như vậy, ông P còn nợ Công ty M số tiền gốc là 67.500.000 đồng và tiền lãi chậm thanh toán.

Tính đến trước ngày 09/3/2021, ông P còn nợ Công ty M tổng số tiền 113.125.100 đồng, như sau:

- Số tiền mua thức ăn nuôi cá còn nợ là: 67.500.000 đồng.

- Tiền lãi chậm thanh toán tính từ ngày 13/4/2018 đến hết ngày 08/3/2021 với mức lãi suất 0,83%/tháng là 45.625.100 đồng, cụ thể như sau:

+ Tiền lãi chậm thanh toán tính từ ngày 13/4/2018 đến hết ngày 03/5/2018 trên số tiền gốc là 252.500.000 đồng là 21 ngày bằng 1.467.025 đồng;

+ Tiền lãi chậm thanh toán tính từ ngày 04/5/2018 đến hết ngày 06/5/2018 trên số tiền gốc là 227.500.000 đồng là 3 ngày bằng 188.825 đồng;

+ Tiền lãi chậm thanh toán tính từ ngày 07/5/2018 đến hết ngày 08/3/2020 trên số tiền gốc là 197.500.000 đồng là 22 tháng 02 ngày bằng 36.172.783 đồng;

+ Tiền lãi chậm thanh toán từ ngày 09/3/2020 đến hết ngày 19/4/2020 trên số nợ gốc 147.500.000 đồng là 01 tháng 11 ngày bằng 1.673.142 đồng;

+ Tiền lãi chậm thanh toán từ ngày 20/4/2020 đến hết ngày 04/5/2020 trên số nợ gốc 107.500.000 đồng là 15 ngày bằng 446.125 đồng;

+ Tiền lãi chậm thanh toán từ ngày 05/5/2020 đến hết ngày 08/3/2021 trên số nợ gốc 67.500.000 đồng là 10 tháng 04 ngày bằng 5.677.200 đồng.

Sau đó ngày 09/3/2021, ông P đã chuyển khoản cho Công ty M số tiền là 67.600.000 đồng. Do đó hiện nay, sau khi trừ tiền gốc và một phần tiền lãi, ông P còn nợ Công ty M số tiền lãi chậm thanh toán là 45.525.100 đồng.

Tại phiên tòa hôm nay, Công ty M rút lại một phần yêu cầu khởi kiện, không yêu cầu ông Phạm Văn P trả số tiền gốc là 67.500.000 đồng; Công ty M chỉ yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Cao Lãnh giải quyết buộc ông Phạm Văn P trả cho Công ty A tổng số tiền lãi chậm thanh toán còn nợ là 45.525.100 đồng (Bốn mươi lăm triệu năm trăm hai mươi lăm ngàn một trăm đồng).

Tại biên bản hòa giải ngày 07/01/2021 bị đơn là ông Phạm Văn P trình bày:

Ông P thừa nhận còn nợ tiền mua thức ăn của Công ty M với số tiền là 67.500.000 đồng. Việc chưa thanh toán số tiền nợ trên là do trong quá trình nhận thức ăn từ Công ty M ông P phát hiện có một lượng hàng hóa không đảm bảo chất lượng, ông P có thông báo cho Công ty M nhưng không được giải quyết, tuy nhiên ông P cũng không có gì để chứng minh. Do đó ông chưa thanh toán cho Công ty M số tiền thức ăn còn nợ là 67.500.000 đồng. Nay ông P đồng ý thanh toán số tiền thức ăn còn nợ là 67.500.000 đồng cho Công ty M. Ông P không đồng ý thanh toán phần tiền lãi chậm thanh toán trên số tiền nợ gốc cho Công ty M.

- Tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án gồm:

+ Giấy CMND Phạm Phúc T (bản sao).

+ Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty TNHH một thành viên (bản sao).

+ Quyết định về việc bổ nhiệm Tổng giám đốc số 06/QĐBN/2015 (bản sao).

+ Giấy ủy quyền số 06/UQ/2015 (bản chính).

+ Hợp đồng ủy quyền ngày 23/9/2020 (bản chính).

+ Thông báo về việc đề nghị thanh toán của Công ty M ngày 04/9/2019 (bản photo).

+ Bảng đối chiếu công nợ các tháng: 04/2017, tháng 05/2017, tháng 06/2017, tháng 7/2017, tháng 8/2017, tháng 09/2017, tháng 10/2017, tháng 11/2017, tháng 01/2019, tháng 02/2019, tháng 03/2019, tháng 04/2019, tháng 05/2019, tháng 06/2019, tháng 07/2019, tháng 8/2019, tháng 9/2019 (tất cả là bản sao).

+ Hóa đơn giá trị gia tăng ngày 15/4/2017, 19/5/2017, 26/5/2017, 16/6/2017, (bản sao).

+ Phiếu cân xe 15/4/2017, ngày 19/5/2017, ngày 26/5/2017, 16/6/2017 (bản photo).

+ Phiếu xuất kho ngày 15/4/2017, ngày 19/5/2017, ngày 26/5/2017, 16/6/2017 (bản sao).

+ Hợp đồng mua bán thức ăn thủy sản số 29.CV/2017/MK-NTT ngày 12/4/2017 (bản sao).

+ Giấy chuyển tiền các ngày 09/5/2017, 15/5/2017, 26/5/2017, 16/6/2017, 31/01/2018, 06/4/2018, 04/5/2018, 07/5/2018, 20/4/2020, 09/3/2020, 05/5/2020 (bản sao).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Công ty M yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Cao Lãnh giải quyết buộc ông Phạm Văn P trả cho Công ty A tổng số tiền lãi chậm thanh toán còn nợ là 45.525.100 đồng. Ngoài ra các đương sự không ai có yêu cầu nào khác nên xác định quan hệ tranh chấp là tranh chấp hợp đồng dân sự - hợp đồng mua bán theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Do bị đơn có địa chỉ ở ấp 2, xã ML, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp và hợp đồng mua bán được thực hiện tại xã ML, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cao Lãnh theo quy định tại Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về sự có mặt của đương sự tại phiên tòa: Ông Phạm Văn P đã được triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ 02 nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa mà không có lý do. Do đó, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông P theo quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung:

Xét yêu cầu của Công ty M yêu cầu ông Phạm Văn P trả cho Công ty A tổng số tiền lãi chậm thanh toán còn nợ là 45.525.100 đồng; Công ty M rút lại một phần yêu cầu khởi kiện, không yêu cầu ông Phạm Văn P trả số tiền gốc là 67.500.000 đồng, Hội đồng xét xử nhận định:

[4] Vào ngày 12/4/2017, Công ty A và ông Phạm Văn P có ký kết Hợp đồng mua bán thức ăn thủy sản theo hợp đồng mua bán số 29.CV/2017/MK- NNK. Trong quá trình thực hiện hợp đồng Công ty M đã giao hàng cho ông P theo đúng quy định hợp đồng, tuy nhiên ông P đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán đối với Công ty M. Tính đến trước ngày 09/3/2021, ông P còn nợ Công ty M tổng số tiền 113.125.100 đồng (tiền gốc là 67.500.000 đồng và tiền lãi 45.625.000 đồng). Sau đó ngày 09/3/2021, ông P đã chuyển khoản cho Công ty M số tiền là 67.600.000 đồng. Do đó hiện nay, sau khi trừ tiền gốc và một phần tiền lãi, ông P còn nợ Công ty M số tiền lãi chậm thanh toán là 45.525.100 đồng.

[5] Ông P cũng thừa nhận có ký kết Hợp đồng mua bán thức ăn thủy sản với Công ty M theo hợp đồng mua bán số 29.CV/2017/MK-NNK và còn nợ Công ty M số tiền gốc là 67.500.000 đồng và tiền lãi là 45.625.000 đồng. Hiện nay ông P đã trả cho Công ty M số tiền 67.600.000 đồng và còn nợ lại Công ty M số tiền 45.525.100 đồng.

Từ những căn cứ nêu trên đủ cơ sở để xác định ông P còn nợ Công ty M số tiền 45.525.100 đồng. Do đó buộc ông P có trách nhiệm trả 45.525.100 đồng tiền mua mua thức ăn thủy sản cho Công ty M là phù hợp theo quy định tại Điều 430, Điều 440 Bộ luật dân sự.

Xét lời phát biểu của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Công ty A đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn là hoàn toàn phù hợp nên chấp nhận lời phát biểu của người bảo vệ.

[6] Công ty M xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện, không yêu cầu ông Phạm Văn P trả số tiền gốc là 67.500.000 đồng (do ông Phạm Văn P đã chuyển khoản trả cho Công ty M số tiền 67.500.000 đồng vào ngày 09/3/2021), Hội đồng xét xử xét thấy đây là sự tự nguyện của Công ty M và phù hợp theo quy định pháp luật nên chấp nhận. Do đó đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty M về việc yêu cầu ông P trả số tiền gốc 67.500.000 đồng do Công ty M rút yêu cầu.

[7] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng, án phí, lệ phí Tòa án thì ông P phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 3 Điều 26; Điều 35; Điều 39; Điều 147, Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 385, Điều 430, Điều 440 Bộ luật dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Ủy ban thường vụ Quốc Hội về về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng, án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu của Công ty A.

- Buộc ông Phạm Văn P có nghĩa vụ trả cho Công ty A số tiền mua thức ăn thủy sản còn thiếu là 45.525.100 đồng (Bốn mươi lăm triệu năm trăm hai mươi lăm nghìn một trăm đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

- Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty M về việc yêu cầu ông P trả số tiền gốc 67.500.000 đồng do Công ty M rút yêu cầu.

- Về án phí:

Ông Phạm Văn P phải chịu 2.276.255 đồng (Hai triệu hai trăm bảy mươi sáu nghìn hai trăm năm mươi lăm đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Công ty A không phải chịu án phí và được nhận lại số tiền 2.700.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0004357 ngày 16/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lãnh.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kề từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

89
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng dân sự, hợp đồng mua bán số 13/2021/DS-ST

Số hiệu:13/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Lãnh - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;