Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 11/2020/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 11/2020/DS-ST NGÀY 18/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 18 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 310/2020/TLST-DS ngày 02/10/2020 về việc tranh chấp: “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 289A/2020/QĐST-DS ngày 21/12/2020 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn : Bà Trương Thị Nguyệt T, sinh năm 1968. Địa chỉ: ấp M, xã M, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

Đại diện uỷ quyền: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1967.

Địa chỉ: số 634, tổ 34, Khu 2, thị trấn C, huyện C, Tiền Giang. (Văn bản ủy quyền ngày 26/6/2020)

* Bị đơn : Ông Lê Văn C, sinh 1960 Địa chỉ: ấp M, xã M, huyện C, Tiền Giang.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan :

1. Bà Trương Thị Nguyệt T, sinh năm 1959.

2. Anh Lê Tấn K, sinh năm 1989.

3. Chị Lê Tú A, sinh năm 1993.

4. Bà Lâm Phương N, sinh năm 1973.

5. Cháu Trương Ngọc A, sinh năm 2007.

Đại diện theo pháp luật: Bà Lâm Phương N, sinh năm 1973 và ông Trương Văn Th, sinh năm 1972.

Cùng địa chỉ: ấp M, xã M, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

6. Ông Trương Văn Th, sinh năm 1972. Địa chỉ: ấp M, xã M, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

(Ông T, bà T có mặt; ông C, anh K, chị Tú A vắng mặt không lý do; chị N, anh Th có đơn xin giải quyết vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai ngày 26/6/2020 các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa ông Nguyễn Văn T là đại diện uỷ quyền của nguyên đơn bà Trương Thị Nguyệt T trình bày:

Vào năm 1989 ông Lê Văn C có mượn bà Trương Thị Nguyệt T 2,5 chỉ vàng 24k, do không có khả năng trả nợ nên ông C có chuyển nhượng cho bà T một phần đất ngang 4m dài 21m tổng diện tích 84m2 để cấn trừ số 2,5 chỉ vàng 24k, ông C đã làm giấy tay về việc chuyển nhượng đất và giao phần đất nêu trên cho bà T quản lý từ ngày 15/10/1994. Đến năm 2005 bà T đã chuyển nhượng lại thửa đất nêu trên cho bà Lâm Phương N với giá 80.000.000 đồng có làm hợp đồng sang nhượng đất giấy tay ngày 01/01/2005 và hiện nay bà N đã xây dựng nhà tường kiên cố ở cùng gia đình cho đến nay không ai tranh chấp hay có ý kiến gì.

Đến ngày 05/7/2017 ông C đã tự ý làm thủ tục tách thửa phần đất mà bà T đã mua thành thửa đất số 95, tờ bản đồ số 19, diện tích 64,1m2 đất ở nông thôn toạ lạc ấp M, xã M, huyện C, tỉnh Tiền Giang do UBND huyện C cấp cho hộ ông Lê Văn C ngày 05/7/2017, bà T đã nhiều lần yêu cần ông C làm thủ tục sang tên phần đất lại cho bà để bà làm thủ tục chuyển nhượng lại cho bà N nhưng ông C và các thành viên trong hộ bận đi làm nên không làm hợp đồng chuyển nhượng được.

Nay bà T yêu cầu công nhận giấy uỷ quyền ngày 15/10/1994 giữa ông Lê Văn C và bà Trương Thị Nguyệt T, được quyền liên hệ các cơ quan có thẩm quyền để đi đăng ký cấp giấy chứng nhận QSDĐ và tài sản gắn liền với đất cho bà T được đứng tên đối với thửa đất số 95, tờ bản đồ số 19, diện tích 64,1m2 toạ lạc ấp M, xã M, huyện C, tỉnh Tiền Giang do UBND huyện C cấp cho hộ ông Lê Văn C ngày 05/7/2017.

* Tại bản tự khai các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trương Thị Nguyệt T trình bày:

Những lời trình bày của nguyên đơn về quá trình chuyển nhượng quyền sử dụng đất giá chuyển nhượng là đúng do chồng bà là ông C và con chị L, anh K bận đi làm không làm thủ tục sang tên thửa đất cho bà T được. Nay bà T thống nhất với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà T.

* Tại bản tự khai ngày 18/12/2020 các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lâm Phương N trình bày:

Vào ngày 01/01/2005 bà Ngọc có nhận chuyển nhượng của bà T phần đất tranh chấp giữa bà T với ông C với giá 80.000.000 đồng, khi chuyển nhượng có làm giấy tay do bà Trương Thị Nguyệt T ký tên. Bà N đã giao đủ số tiền 80.000.000 đồng cho bà T và nhận đất từ năm 2005 xây dựng nhà tường kiên cố để ở cho đến nay không ai tranh chấp hay ý kiến gì. Nay bà N thống nhất với yêu cầu khởi kiện của bà T, sau khi nguyên đơn được cấp giấy chứng quyền sử dụng đất thì bà N sẽ yêu cầu bà T làm thủ tục sang tên lại cho bà N, còn trong vụ kiện này bà N không tranh chấp gì.

* Tại bản tự khai 18/12/2020 các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trương Văn Th trình bày:

Ông Thành là chồng của bà Lâm Phương N, hiện nay ông và bà N đang ở trên thửa đất số 95, tờ bản đồ số 19, diện tích 64,1m2 đất ở nông thôn toạ lạc ấp M, xã M, huyện C, tỉnh Tiền Giang do UBND huyện C cấp cho hộ ông Lê Văn C ngày 05/7/2017. Nay ông thống nhất với ý kiến của bà N không bổ sung gì thêm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C phát biểu ý kiến và đề nghị:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử thực hiện đúng theo quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã tuân thủ theo đúng quy định Bộ luật tố tụng dân sự. Tư cách của người tham gia tố tụng tuân thủ theo đúng quy định của Điều 68, 70, 71, 72, 73, 234 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Theo các tài liệu thể hiện trong hồ sơ và tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 117, 129, 500, 503 Bộ luật dân sự. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Thu. Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giấy tay ngày 15/10/1994 giữa bà Thu với ông Chính và các thành viên trong hộ đối với thửa đất số 95, tờ bản đồ số 19, diện tích 64,1m2 tọa lạc tại ấp M, xã M, huyện C, tỉnh Tiền Giang do ông C đại diện hộ gia đình đứng tên ngày 05/7/2017.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Bị đơn ông Lê Văn C, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Lê Tấn K, chị Lê Tú A đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do; bà Lâm Phương N, ông Trương Văn Th có đơn xin giải quyết vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng ông C, anh K, chị Tú A, bà N và ông Th theo quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: Nguyên đơn bà Trương Thị Nguyệt T yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà T với ông Lê Văn C và các thành viên trong hộ theo giấy tay ngày 15/10/1994 đối với phần đất thửa số 95, tờ bản đồ số 19, diện tích 64,1m2 đất ở nông thôn toạ lạc ấp M, xã M, huyện C, tỉnh Tiền Giang do UBND huyện C cấp cho hộ ông Lê Văn C ngày 05/7/2017 là có căn cứ để chấp nhận. Bởi lẽ, do ông C nợ bà T 2,5 chỉ vàng 24k, nên ngày 15/10/1994 hai bên làm giấy tay chuyển nhượng phần đất ngang 4m x 21m, diện tích 84m2 để cấn trừ số nợ 2,5 chỉ vàng 24k và ông C đã giao phần diện tích đất chuyển nhượng cho bà T quản lý, bà T đã chuyển nhượng lại cho bà Lâm Phương N vào năm 2005, bà N cũng đã cất nhà tường kiên cố ở cho đến nay không có ai có tranh chấp gì, nhưng do khi làm lộ cấp lại giấy mới diện tích còn lại 64,1m2. Tuy nhiên, vào năm 2020 bà T có yêu cầu hộ gia đình ông C làm thủ tục sang tên nhưng các thành viên trong hộ đi làm xa nên hai bên không thực hiện được. Đồng thời, theo các lời khai trong quá trình giải quyết và tại phiên tòa thì bà Trương Thị Nguyệt T là vợ của ông C là thành viên trong hộ gia đình cũng thống nhất tiếp tục thực hiện chuyển nhượng đất cho bà T không có tranh chấp gì, lý do không thực hiện được do ông C và con của bà T là anh K và chị Tú A bận đi làm ở Thành phố Hồ Chí Minh không xin nghỉ được để ký hợp đồng sang tên cho phía bà T.

[3] Hội đồng xét xử thấy rằng, mặc dù hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 15/10/1994 giữa bà T với ông C chỉ lập giấy tay chưa được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật và chỉ có ông C ký tên còn các thành viên trong hộ không có ký tên, nhưng trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà thì bà T cũng xác định những thành viên trong hộ cũng thống nhất việc chuyển nhượng này cũng không có ý kiến phản đối hay tranh chấp gì, theo quy định tại mục 2.3 Điều 2 Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn giải quyết tranh chấp chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập sau ngày 15/10/1993 thì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có đầy đủ các điều kiện theo quy định nhưng bên chuyển nhượng không phản đối và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện và Tòa án công nhận hợp đồng. Mặc khác, tại Điều 134 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân thủ theo thì theo yêu cầu một bên hoặc các bên thì Tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác buộc thực hiện về hình thức của giao dịch; theo quy định tại khoản 2 Điều 129 Bộ luật dân sự quy định giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu trừ trường hợp sau“Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Toà án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực”. Từ các quy định trên cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà T với ông C ngày 15/10/1994 không bị vô hiệu theo quy định của pháp luật và phù hợp với nội dung Án lệ số 04/2016/AL ngày 06/4/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

[4] Xét, đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận toàn bộ đề nghị của Viện kiểm sát.

[5] Về án phí: Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T, căn cứ vào khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Toà án, nên ông Chính phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 134 Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 117, 129, 500, 503 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 227, Điều 228, Điều 271, 272, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Án lệ số 04/2016/AL ngày 06/4/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Toà án.

Xử :

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị Nguyệt T.

Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giấy tay ngày 15/10/1994 giữa bà Trương Thị Nguyệt T với ông Lê Văn C, bà Trương Thị Nguyệt T, anh Lê Tấn K, chị Lê Tú A.

Công nhận cho bà Trương Thị Nguyệt T phần diện tích đất theo trích lục bản đồ địa chính ngày 25/11/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện C thửa đất số 95, tờ bản đồ số 19, diện tích 64,1m2 m2 toạ lạc tại ấp M, xã M, huyện C, tỉnh Tiền Giang do UBND huyện C cấp cho ông Lê Văn C đại diện hộ gia đình đứng tên ngày 05/7/2017, phần đất có tứ cận, số đo như sau:

+ Hướng Đông: Giáp phần đất bà Lê Thanh T 16,62m + Hướng Tây: Giáp đất ông Lê Văn C 16,54m.

+ Hướng Nam: Giáp phần đất bà Lê Thanh T 3,76m.

+ Hướng Bắc: Giáp quốc lộ 1A 4,04m (Có bản trích lục bản đồ địa chính kèm theo) Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật bà Trương Thị Nguyệt T được quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần diện tích đất theo bản trích lục bản đồ địa chính ngày 25/11/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện C đối với thửa đất số 95, tờ bản đồ số 19, diện tích 64,1m2 toạ lạc tại ấp M, xã M, huyện C, tỉnh Tiền Giang do UBND huyện C cấp cho ông Lê Văn C đại diện hộ gia đình đứng tên ngày 05/7/2017, sang cho bà Trương Thị Nguyệt T đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

2. Về án phí: Ông Lê Văn C phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn lại cho bà Trương Thị Nguyệt T số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0004029 ngày 01/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Tiền Giang.

3. Về quyền kháng cáo: Bà Trương Thị Nguyệt T, bà Trương Thị Nguyệt T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; ông Lê Văn C, anh Lê Tấn K, chị Lê Tú A, bà Lâm Phương N, ông Trương Văn Th được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ bản án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

250
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 11/2020/DS-ST

Số hiệu:11/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 18/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;