TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 29/2024/KDTM-ST NGÀY 16/05/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHO THUÊ TÀI SẢN
Hôm nay, ngày 16 tháng 5 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hà Đông xét xử công khai sơ thẩm vụ án Kinh doanh thương mại thụ lý số 46/2022/TLST-KDTM ngày 01/8/2022 về tranh chấp Hợp đồng cho thuê tài sản theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2024/QĐXX-ST ngày 12/4/2024;Quyết định hoãn phiên toà số: 21/2024/QĐSTKDTM ngày 26/4/2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty cổ phần C. Trụ sở: Thôn G, xã T, huyện Y, tỉnh Yên Bái Người đại diện theo pháp luật: bà Nguyễn Thị M - Giám đốc Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đỗ Tiến D, ông Phạm Bá T. Địa chỉ: Số B, lô T, khu đô thị H, phường M, quận N, thành phố Hà Nội ( theo hợp đồng ủy quyền ngày 15/9/2020 ). Có mặt.
- Bi đơn: Công ty TNHH Đ. Trụ sở: Số B, ngõ A TTHV Báo chí và tuyên truyền, phường V, quận H, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Thị Ninh T1 - Giám đốc. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
*Tại đơn khởi kiện ngày 07/3/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm. Nguyên đơn Công ty cổ phần C do ông Phạm Bá T đại diện trình bày:
Công ty Cổ phần C ( gọi tắt là Công ty C ) có tài sản bao gồm quyền sử dụng đất, nhà xưởng trên đất, khu nhà văn phòng và máy móc, trang thiết bị phục vụ sản xuất tại địa chỉ: Xã T, huyện Y, tỉnh Yên Bái theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BM 968172 và BM 968173 do UBND tỉnh Y cấp ngày 11/4/2014.
Căn cứ vào nhu cầu và thỏa thuận của các bên, ngày 26/5/2018, tại trụ sở Công ty cổ phần C, Công ty C và Công ty TNHH Đ ( gọi tắt là Công ty Đ ) đã ký kết hợp đồng cho thuê tài sản số 01/HĐCTTS/TMC-VH với nội dung: Công ty C đồng ý cho thuê và Công ty Đ đồng ý thuê tài sản cho thuê bao gồm mặt bằng cho thuê, nhà xưởng và máy móc, thiết bị; Mục đích thuê: Công ty Đ thuê tài sản cho thuê của Công ty C để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh; Thời hạn cho thuê là 10 năm, với giá trị hợp đồng thuê là 800.000.000 VNĐ/năm (Tám trăm triệu đồng), n âm đầu tiên công ty C giảm 300.000.000 VNĐ (Ba trăm triệu đồng) cho bên thuê. Theo nội dung của Hợp đồng, thời điểm cho thuê bắt đầu từ ngày Công ty C bàn giao tài sản (ngày 28/5/2018) cho công ty Đ quản lý cộng thêm một tháng sửa chữa, cải tạo, lắp ghép, xây dựng và Công ty Đ thanh toán cho Công ty C trong thời hạn 01 tháng kể từ thời điểm nhận bàn giao tài sản.
Tuy nhiên, kể từ thời điểm hai bên bàn giao tài sản đến nay, Công ty Đ chưa thực hiện thanh toán bất kỳ khoản chi phí nào cho công ty C mặc dù Công ty đã đôn đốc, nhắc nhở nhiều lần. Trong thời gian Công ty Đ sử dụng tài sản thuê mà không thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
Trên tinh thần thiện chí hợp tác, Công ty C đã nhiều lần nhắc nhở, đôn đốc và mong muốn các bên có thể giải quyết bằng thương lượng. Tuy nhiên, việc Công ty TNHH Đ, không thực hiện trách nhiệm đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ cơ bản của Hợp đồng cho thuê tài sản số 01/HĐCTTS/TMC-VH ký ngày 26/5/2018, gây thiệt hại trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty C. Do đó, Công ty C làm đơn khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết buộc công ty Đ thực hiện các nghĩa vụ sau: 1. Tuyên hủy Hợp đồng 01/HĐCTTS/TMC-VH giữa Công ty C và Công ty Đ theo quy định tại Điều 424 Bộ luật dân sự 2015; 2. Yêu cầu Công ty Đ bồi thường thiệt hại cho Công ty C do hậu quả của việc hủy Hợp đồng theo quy định tại Điều 427 Bộ luật dân sự 2015 cụ thể như sau: Số tiền thuê tài sản theo Hợp đồng số 01/HĐCTTS/TMC-VH với số tiền cần phải thanh toán là: 4.100.000.000 VNĐ (bốn tỷ một trăm triệu đồng) cụ thể:
- Từ ngày 28/5/2018 đến ngày 27/5/2019 ( 1 năm ) là 500.000.000 đồng. - Từ ngày 28/5/2019 đến ngày 27/5/2023 (4 năm ) là 3.200.000.000 đồng (theo Hợp đồng 800.000.000 đồng/ năm ).
- Từ ngày 28/5/2023 đến hết 27/12/2023 ( ½ năm ) là 400.000.000 đồng.
Tại đơn khởi kiện ngày 07/3/2020 Công ty C yêu cầu Tòa án giải quyết: 1/ Hủy hợp đồng cho thuê tài sản: 01/HĐCTTS/TMC-VH ngày 26/5/2018 được ký kết giữa Công ty C và Công ty TNHH Đ;
2/ Yêu cầu Công ty TNHH Đ bồi thường thiệt hại cho Công ty C do hậu quả của việc hủy hợp đồng, cụ thể như sau:
+ Số tiền thuê tài sản theo hợp đồng số 01/HĐCTTS/TMC-VH với số tiền cần phải thanh toán là : 1.300.000.000 đồng ( Một tỷ ba trăm triệu đồng chẵn) là số tiền tính đến ngày khởi kiện.
+ Số tiền chi phí duy trì nhà máy thuộc trách nhiệm của Công ty Đ mà Công ty C đã thanh toán là: 192.500.000đồng ( Một trăm chín mươi hai triệu, năm trăm nghìn đồng chẵn);
3/ Thanh toán giá trị của 02 mặt bích lô sấy chè là tài sản của Công ty C mà Công ty TNHH Đ đã vận chuyển trái phép. Nay Công ty C xin rút các yêu cầu sau:
+ Số tiền chi phí duy trì nhà máy thuộc trách nhiệm của Công ty Đ mà Công ty C đã thanh toán là: 192.500.000 đồng ( Một trăm chín mươi hai triệu, năm trăm nghìn đồng chẵn).
+ Thanh toán giá trị của 02 mặt bích lô sấy chè là tài sản của Công ty C mà Công ty TNHH Đ đã vận chuyển trái phép.
Về án phí: Công ty C đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Ngoài các vấn đề trên Công ty C không yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề gì khác. Quá trình tiến hành tố tụng giải quyết vụ án, do Công ty Đ không còn hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký kinh doanh nên Tòa án đã tiến hành tống đạt trực tiếp các văn bản tố tụng của Toà án cho người đại diện theo pháp luật của Công ty là bà Nguyễn Thị Ninh T1 đến Toà án để giải quyết vụ án, nhưng bà T1 không đến Toà, không thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng nên Toà án giải quyết theo thủ tục chung. Tại phiên tòa ngày hôm nay: Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu đề nghị Tòa án tuyên hủy hợp đồng cho thuê tài sản: 01/HĐCTTS/TMC-VH ngày 26/5/2018 được ký kết giữa Công ty C và Công ty TNHH Đ và yêu cầu Công ty Đ phải thanh toán trả cho Công ty C số tiền là 4.100.000.000 đồng. Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông tham gia phiên Tòa có ý kiến phát biểu như sau:
Về tố tụng: Quá trình Tòa án tiến hành thụ lý vụ án cho đến khi đưa quyết định đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán, thư ký đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, tại phiên tòa hôm nay Hội đồng xét xử đã tiến hành tố tụng theo đúng các quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Về thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án: Tòa án đã vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định tại Điều 203 của bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Về phía các đương sự: Nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, đã được đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định của pháp luật. Bị đơn không chấp hành đúng các quy định của pháp luật Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty C; Tuyên hủy hợp đồng cho thuê tài sản số: 01/HĐCTTS/TMC-VH ngày 26/5/2018 được ký kết giữa Công ty C và Công ty TNHH Đ; Buộc Công ty Đ phải thanh toán trả cho Công ty C số tiền là 4.100.000.000 đồng.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về thủ tục tố tụng: Quá trình Tòa án tiến hành tố tụng giải quyết vụ án đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Tại phiên tòa hôm nay Công ty Đ vắng mặt không có lý do. Vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 207 và khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành giải quyết và xét xử vụ án váng mặt Công ty Đ.
[2]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây là vụ án tranh chấp về hợp đồng cho thuê tài sản được ký kết giữa Công ty C và Công ty TNHH Đ nhằm mục đích phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh. Vì vậy xác định đây là tranh chấp Kinh doanh thương mại được quy định tại khoản 1 Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[3]. Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Công ty TNHH Đ có địa chỉ trụ sở tại: Số B, ngõ A TTHV Báo chí và tuyên truyền, phường V, quận H, thành phố Hà Nội. Vì vậy, căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ án nêu trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
[4] Xét yêu cầu của nguyên đơn hủy hợp đồng cho thuê tài sản số : 01/HĐCTTS/TMC-VH và yêu cầu trả số tiền thuê tài sản:
Căn cứ vào lời trình bày của nguyên đơn và các tài liệu chứng cứ do nguyên đơn xuất trình. Hội đồng xét xử xét thấy: Hợp đồng cho thuê tài sản số 01/HĐCTTS/TMCVH được ký kết giữa Công ty C và Công ty TNHH Đ ngày 26/5/2018 giữa các bên đã thống nhất thoả thuận: Công ty C đồng ý cho thuê và Công ty Đ đồng ý thuê tài sản cho thuê bao gồm mặt bằng cho thuê, nhà xưởng và máy móc, thiết bị; Mục đích thuê: Công ty Đ thuê tài sản cho thuê của Công ty C để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh; Thời hạn cho thuê là 10 năm, với giá trị hợp đồng thuê là 800.000.000 VNĐ/năm (Tám trăm triệu đồng), năm đầu tiên công ty C giảm 300.000.000 VNĐ (Ba trăm triệu đồng) cho bên thuê. Thời điểm cho thuê bắt đầu từ ngày Công ty C bàn giao tài sản là ngày 28/5/2018 cho công ty Đ quản lý cộng thêm một tháng sửa chữa, cải tạo, lắp ghép, xây dựng và Công ty Đ thanh toán cho Công ty C trong thời hạn 01 tháng kể từ thời điểm nhận bàn giao tài sản. Cùng ngày các bên đã tiến hành bàn giao máy móc thiết bị cho nhau theo biên bản bàn giao máy móc thiết bị số: 01/BBBG, đến nay Công ty C đã nhiều lần gửi Công văn yêu cầu Công ty Đ thanh toán tiền thuê tài sản, nhưng Công ty Đ không thanh toán. Quá trình giải quyết vụ án Toả án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho Công ty Đ đến Toà án để giải quyết vụ án, nhưng Công ty Đ không đến, cũng như không có ý kiến trình bày gì. Nên có đủ căn cứ xác định Công ty Đ vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 312 của Luật thương mại, do đó yêu cầu Hủy Hợp đồng của Công ty C là có căn cứ nên chấp nhận.
Do yêu cầu Hủy Hợp đồng thuê tài sản có căn cứ nên yêu cầu của Công ty C để nghị Tòa án giải quyết buộc Công ty Đ phải bồi thường thiệt hại cho Công ty C tương ứng với số tiền mà Công ty Đ phải thanh toán theo Hợp đồng là 4.100.000.000 đồng cụ thể:
- Từ ngày 28/5/2018 đến ngày 27/5/2019 ( 1 năm ) là 500.000.000 đồng. - Từ ngày 28/5/2019 đến ngày 27/5/2023 ( 4 năm ) là 3.200.000.000 đồng (theo Hợp đồng 800.000.000 đồng / năm ). - Từ ngày 28/5/2023 đến hết 27/12/2023 ( 1/2 năm ) là 400.000.000 đồng.
Là có căn cứ chấp nhận. Tại phiên tòa hôm nay Công ty C xin rút yêu cầu :
+ Số tiền chi phí duy trì nhà máy thuộc trách nhiệm của Công ty Đ mà Công ty C đã thanh toán là: 192.500.000 đồng ( Một trăm chín mươi hai triệu, năm trăm nghìn đồng chẵn).
+ Thanh toán giá trị của 02 mặt bích lô sấy chè là tài sản của Công ty C mà Công ty TNHH Đ đã vận chuyển trái phép.
Xét đây là sự tự nguyện của Công ty C nên HĐXX chấp nhận và đình chỉ đối với yêu cầu này.
[6].Về án phí: Công ty C không phải chịu án phí đối với các yêu cầu được chấp nhận. Công ty Đ phải chịu án phí đối với các phần yêu cầu mà Công ty C được chấp nhận theo quy định tại mục 1 phần II danh mục án phí ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.
Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 271; Điều 273; Điều 280; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Căn cứ vào khoản 2, khoản 4 Điều 312; Điều 314; Điều 319 của Luật thương mại năm 2005.
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Xử - Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Cơ phần chè Văn Hưng đối với Công ty TNHH Đ.
- Hủy bỏ Hợp đồng cho thuê tài sản số: 01/HĐCTTS/TMC-VH được ký kết giữa Công ty C và Công ty TNHH Đ ngày 26/5/2018.
- Buộc Công ty TNHH Đ phải hoàn trả cho Công ty Cơ phần chè Văn Hưng số tiền là : 4.100.000.000 đồng.
- Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của Công ty Cơ phần chè Văn Hưng về việc yêu cầu Công ty TNHH Đ thanh toán số tiền chi phí duy trì nhà máy là: 192.500.000 đồng ( Một trăm chín mươi hai triệu, năm trăm nghìn đồng chẵn) và thanh toán giá trị của 02 mặt bích lô sấy chè là tài sản của Công ty C mà Công ty TNHH Đ đã vận chuyển trái phép.
Kể từ ngày 17/5/2024 cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
- Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. Về án phí: Công ty C phần chè Văn Hưng không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả Công ty Cơ phần chè Văn Hưng số tiền tạm ứng án phí mà Công ty C phần chè Văn Hưng đã nộp là 29.000.000 đồng tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0010332 ngày 28/7/2022 của Chi cục thi hành án dân sự quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
- Công ty TNHH Đ phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm số tiền là 112.100.000 đồng. Án xử công khai sơ thẩm có mặt đại diện nguyên đơn, vắng mặt bị đơn Công ty TNHH Đ. Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tranh chấp hợp đồng cho thuê tài sản số 29/2024/KDTM-ST
Số hiệu: | 29/2024/KDTM-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hà Đông - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 16/05/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về