Bản án về tranh chấp hợp đồng cầm cố và hợp đồng thuê quyền sử dụng đất số 22/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 22/2021/DS-ST NGÀY 22/02/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CẦM CỐ VÀ HỢP ĐỒNG THUÊ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 22 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 512/2020/TLST-DS ngày 18/12/2020 về việc tranh chấp: “Hợp đồng cầm cố và hợp đồng thuê quyền sử dụng đất”.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2021/QĐST-DS ngày 26/01/2021 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Anh Trương Trọng N, sinh năm 1985.

Địa chỉ: ấp M, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

Đại diện uỷ quyền: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1967.

Địa chỉ: số 634, tổ 34, Khu 2, thị trấn C, huyện C, tỉnh Tiền Giang. (Văn bản ủy quyền ngày 08/12/2020)

- Bị đơn: Ông Võ Văn L, sinh năm 1975.

Địa chỉ: ấp H, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

(Ông T, ông L có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai ngày 08/12/2020 các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa ông Nguyễn Văn T đại diện ủy quyền nguyên đơn anh Trương Trọng N trình bày:

Ngày 20/8/2017 anh N có cầm cố 2.000m2 đất của ông L tại xã H Phú, huyện C, Tiền Giang với số vàng 15 chỉ vàng 24k và cho ông L thuê lạ i trong thời hạn 02 năm với số tiền 7.000.000 đồng, có làm giấy tay; Ngày 26/5/2018 anh N tiếp tục cầm cố 1.000m2 đất của ông L tại xã H, huyện C, Tiền Giang với số vàng 10 chỉ vàng 24k, cho ông L thuê lại 04 năm mỗi năm 5.000.000 đồng.

Tuy nhiên, đến thời gian chuộc lại đất thì ông L có trả được 04 chỉ vàng 24k còn nợ lại 21 chỉ vàng 24k và tiền thuê đất với số tiền 10.000.000 đồng đến nay chưa trả. Nay anh N yêu cầu ông L có nghĩa vụ trả 21 chỉ vàng 24k và 10.000.000 đồng, trả 01 lần sau khi án có hiệu lự c pháp luật.

* Tại bản tự khai các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn ông Võ Văn L trình bày:

Ông L thống nhất với ý kiến trình bày của anh N về việc có cầm cố đất và thuê lại đất, hiện còn nợ anh N 21 chỉ vàng 24k và 10.000.000 đồng. Nay ông L cũng đồng ý trả cho anh N nhưng xin được trả dần mỗi tháng 05 phân vàng 24k và 500.000 đồng cho đến khi hết nợ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C phát biểu ý kiến và đề nghị:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử thực hiện đúng theo quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã tuân thủ theo đúng quy định Bộ luật tố tụng dân sự. Tư cách của người tham gia tố tụng và luật sư tuân thủ theo đúng quy định của Điều 68, 70, 71, 72, 73, 234 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Theo lời khai của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án đại diện Viện kiểm sát nhận thấy yêu cầu khởi kiện của anh N là có căn cứ chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh N, tuyên bố hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất vô hiệu và chấm dứt hợp đồng thuê quyền sử dụng đất giữa anh N và ông L ngày 20/8/2017 và ngày 26/5/2018. Buộc ông L có nghĩa vụ trả cho anh N 21 chỉ vàng 24k và số tiền 10.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Xét, yêu cầu khởi kiện của anh N yêu cầu tuyên bố hợp đồng cầm cố vô hiệu và chấm dứt hợp đồng thuê đất ngày 20/8/2017 và ngày 26/5/2018, yêu cầu ông L trả 21 chỉ vàng 24k và số tiền 10.000.000 đồng là có cơ sở chấp nhận. Bởi lẽ, tại phiên tòa ông L cũng thừa nhận có cầm cố đất và thuê lại đất của anh N, hiện còn nợ 21 chỉ vàng 24k và số tiền 10.000.000 đồng cho đến nay chưa trả và ông L cũng đồng ý trả cho anh N, nên lời thừa nhận nợ của ông L đây là tình tiết không cần phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự. Do phần đất cầm cố hiện tại ông L đã chuyển nhượng cho người khác, anh N chỉ yêu cầu tuyên bố hợp đồng cầm cố vô hiệu và chấm dứt hợp đồng thuê đất và ông L cũng đồng ý. Xét, hợp đồng cầm cố và thuê quyền sử dụng đất giữa hai bên không được nhà nước quy định, nên hợp đồng này bị vô hiệu ngay từ khi xác lập giao dịch, nên các bên phải hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận. Do đó, buộc ông L có nghĩa vụ hoàn trả lại cho anh N 21 chỉ vàng 24k và số tiền 10.000.000 đồng là hoàn toàn phù hợp theo quy định tại các Điều 122, 131, 166, 422, 481 Bộ luật dân sự.

[2] Tại phiên toà ông T đại diện ủy quyền nguyên đơn anh N, bị đơn ông L hai bên không thoả thuận được về thời gian trả số vàng và tiền. Cho nên, phương thức trả, thời gian trả số vàng và tiền trên do hai bên đương sự thỏa thuận với nhau khi đến giai đoạn thi hành án.

[3] Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát.

[4] Về án phí: Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh N, căn cứ vào khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Toà án, nên ông L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Lấy giá vàng tại thời điểm giải quyết 5.400.000 đồng/01 chỉ vàng 24k để làm căn cứ tính án phí: 21 chỉ vàng 24k x 5.400.000 đồng/01 chỉ vàng 24k + 10.000.000 đồng x 5% = 6.170.000 đồng (Sáu triệu một trăm bảy mươi ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 122, 131, 166, 422, 481 Bộ luật dân sự; Điều 271, 272, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.

Xử :

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Trương Trọng N.

Tuyên bố hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất vô hiệu và chấm dứt hợp đồng thuê quyền sử dụng đất được ký kết giữa anh Trương Trọng N và ông Võ Văn L ngày 20/8/2017 đối với phần đất 2.000m2 và ngày 26/5/2018 đối với phần đất 1.000m2 tọa lạc tại ấp M, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

Buộc ông Võ Văn L trả cho anh Trương Trọng N 21 (Hai mươi mốt) chỉ vàng 24k và số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).

2. Về án phí: Ông Võ Văn L phải chịu 6.170.000 đồng (Sáu triệu một trăm bảy mươi ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả cho anh Trương Trọng N số tiền 3.675.000 đồng (Ba triệu sáu trăm bảy mươi lăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0004552 ngày 18/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, Tiền Giang.

3. Về quyền kháng cáo: Anh Trương Trọng N, ông Võ Văn L được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng cầm cố và hợp đồng thuê quyền sử dụng đất số 22/2021/DS-ST

Số hiệu:22/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;