Bản án 30/2024/DS-ST về tranh chấp hợp đồng cầm cố tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG PHÚ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 30/2024/DS-ST NGÀY 29/03/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CẦM CỐ TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 05/2024/TLST-DS, ngày 08 tháng 01 năm 2024 về “Tranh chấp hợp đồng cầm cố tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2024/QĐXXST-DS, ngày 23 tháng 02 năm 2024, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Công ty cổ phần S (sau đây gọi tắt là: Công ty); trụ sở chính: 128 N, phường B, thành phố V, tỉnh Nghệ An.

Người đại diệp hợp pháp của nguyên đơn: Ông Võ Anh H, sinh năm 1997; địa chỉ: D L, Phường C, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (theo Quyết định số 289/2023/UQ-SVN ngày 01/10/2023) (Có mặt).

2. Bị đơn: Ông Lê Văn H1, sinh năm 1998; địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện L, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong đơn khởi kiện lập ngày 27/12/2023, nguyên đơn Công ty cổ phần S Có Ngay trình bày: Vào ngày 14/3/2023, ông Lê Văn H1 có đến chi nhánh S1 của Công ty cổ phần S Có Ngay tại địa chỉ D L, phường C, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng, để ký hợp đồng cầm cố tài sản. Cụ thể theo hợp đồng cầm cố số: STM230301014NA20X được ký giữa các bên ngày 14/3/2023 số đăng ký Giao dịch Đảm bảo trên Hệ thống Đăng ký Trực tuyến của Cục Đ: Giaodichdambao/botuphap: 1492541862 theo web https://dktructuyen.moj.gov.vn/ thì ông Lê Văn H1 cầm cố tài sản là: 01 xe mô tô hai bánh biển kiểm soát 83Z1-037.xx, loại xe Honda Vision; màu: Đen xám, số khung QLHJF5834LY115561, số máy JF86E2394301; Số Giấy chứng nhận đăng ký xe môtô số 005345 do Công an tỉnh S cấp ngày 10/11/2020. Để lấy số tiền là 15.400.000 đồng (Mười năm triệu bốn trăm nghìn đồng); thời hạn cầm cố là 12 tháng (từ 14/3/2023 - 14/3/2024) với mức lãi suất là 1,1%/ tháng, lãi suất nợ gốc quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn.

Theo hợp đồng cầm cố đã ký thì công ty đã giải ngân đầy đủ số tiền trên cho ông Lê Văn H1.

Ngoài ra, do nhu cầu cần có xe đi lại hàng ngày nên Công ty có ký giấy cho ông Lê Văn H1 mượn lại xe sử dụng. Trong Giấy mượn xe có quy định rõ thời hạn mượn xe từ 14/3/2023 đến 14/4/2023 địa điểm trả xe là tại chi nhánh S1. Ông Lê Văn H1 có cam kết rõ ràng trong giấy mượn xe: "Hoàn trả lại tài sản mượn đúng thời hạn và địa điểm đã thỏa thuận”.

Quá trình trả nợ, ông Lê Văn H1 chưa thanh toán đúng nghĩa vụ theo hợp đồng cho Công ty. Cụ thể, ông Lê Văn H1 chưa thanh toán được khoản tiền gốc và lãi nào và cũng không trả lại xe máy cho Công ty. Nhân viên của Công ty đã nhiều lần liên hệ qua điện thoại và đến nhà ông Lê Văn H1 tại địa chỉ: ấp T, xã T, huyện L, tỉnh Sóc Trăng nhưng đều không có kết quả.

Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Công ty cổ phần S Có Ngay là ông Võ Anh H thay đổi và xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện, cụ thể: Buộc bị đơn ông Lê Văn H1 phải thanh toán một lần toàn bộ khoản nợ cho Công ty tính đến ngày 29/3/2024 với số tiền nợ gốc là 15.400.000 đồng, tiền lãi trong hạn tính đến ngày 29/3/2024 là 2.032.000 đồng, tổng cộng 17.432.000 đồng; không yêu cầu lãi phát sinh theo hợp đồng kể từ ngày 30/3/2024. Xin rút lại yêu cầu phát mãi tài sản là xe mô tô hai bánh biển kiểm soát 83Z1 - 037.xx, loại xe HONDA VISION; màu: Đen xám, số khung QLHJF5834LY115561, số máy JF86E2394301; số Giấy chứng nhận đăng ký xe môtô số 005345 do Công an tỉnh S cấp ngày 10/11/2020; rút lại yêu cầu về khoản phí (3,5%) và phí theo dõi 300.000 đồng mỗi tháng kể từ ngày vi phạm nghĩa vụ thanh toán.

- Đối với bị đơn ông Lê Văn H1: Quá trình giải quyết vụ án, ông Lê Văn H1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ 02 lần để tham gia tố tụng tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và tống đạt các văn bản tố tụng khác nhưng không thể thực hiện được thủ tục cấp, tống đạt, thông báo trực tiếp cho họ được vì ông H1 đã bỏ địa phương đi và không thông báo cho Tòa án và nguyên đơn biết việc đã thay đổi địa chỉ nơi cư trú và địa chỉ nơi cư trú mới, nên căn cứ vào khoản 3 Điều 70, khoản 1 Điều 72, khoản 3 Điều 177 và Điều 179 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai các văn bản tố tụng cho họ theo đúng quy định của pháp luật.

- Tại phiên toà, Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú tham gia phiên tòa trình bày ý kiến: Việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và xác định tư cách của người tham gia tố tụng trong vụ án là đúng quy định của pháp luật; việc tuân theo pháp luật của Thâm phan, Thư ký, Hôi đồng xet xư va những người tham gia tố tụng trong qua trinh giai quyết vu an kê tư khi thu ly vu an đến trươc thơi điêm Hôi đồng xet xư vao nghi an đã chấp hanh đung cac quy đinh cua phap luât về tố tung dân sư, đối với bị đơn ông Lê Văn H1 chưa chấp hành đúng quy đinh cua phap luât về tố tung dân sư. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua thẩm tra các chứng cứ và kết quả tranh luận tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 280, Điều 309, Điều 466, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uy ban thương vu Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án; Điều 26 Luật thi hành án dân sự chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bị đơn ông Lê Văn H1 hoàn trả cho nguyên đơn số tiền tính đến ngày 29/3/2024 là 17.432.000 đồng, bao gồm tiền nợ gốc là 15.400.000 đồng, lãi là 2.032.000 đồng. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu phát mãi tài sản là xe mô tô hai bánh biển kiểm soát 83Z1-037.xx, loại xe HONDA VISION; màu: Đen xám, số khung QLHJF5834LY115561, số máy JF86E2394301; Số Giấy chứng nhận đăng ký xe môtô số 005345 do Công an tỉnh S cấp ngày 10/11/2020; rút lại yêu cầu về khoản phí 3,5%/tháng và phí theo dõi 300.000 đồng mỗi tháng kể từ ngày vi phạm nghĩa vụ thanh toán do nguyên đơn đã rút yêu cầu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Theo nội dung khởi kiện, nguyên đơn Công ty yêu cầu ông Lê Văn H1 trả số tiền nợ gốc và lãi theo hợp đồng cầm cố tài sản mà ông Lê Văn H1 ký kết nên quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp hợp đồng cầm cố tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong vụ án, bị đơn ông Lê Văn H1 cư trú tại ấp T, xã T, huyện L, tỉnh Sóc Trăng nên Tòa án nhân dân huyện Long Phú thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Bị đơn ông Lê Văn H1 từ khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cho ông H1 nhưng ông không có ý kiến phản đối gì. Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông H1 hai lần để tham gia tố tụng tại phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông vẫn vắng mặt không lý do. Tại phiên tòa, bị đơn ông Lê Văn H1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng không lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm a, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông H1.

[3]. Tại phiên toà hôm nay, nguyên đơn thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện về việc chỉ yêu cầu bị đơn ông Lê Văn H1 phải thanh toán một lần toàn bộ khoản nợ cho Công ty tính đến ngày 29/3/2024 với số tiền nợ gốc là 15.400.000 đồng, tiền lãi trong hạn tính đến ngày 29/3/2024 là 2.032.000 đồng, tổng cộng 17.432.000 đồng; không yêu cầu lãi phát sinh theo hợp đồng kể từ ngày 30/3/2024.

Xét việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là tự nguyện và không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu theo quy định tại khoản 1 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]. Tại phiên toà hôm nay, nguyên đơn xin rút lại yêu cầu phát mãi tài sản là xe mô tô hai bánh biển kiểm soát 83Z1-037.xx, loại xe HONDA VISION; màu: Đen xám, số khung QLHJF5834LY115561, số máy JF86E2394301; Số Giấy chứng nhận đăng ký xe môtô số 005345 do Công an tỉnh S cấp ngày 10/11/2020; rút lại yêu cầu về khoản phí 3,5%/tháng và phí theo dõi 300.000 đồng mỗi tháng kể từ ngày vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Xét thấy, việc rút một phần yêu cầu khởi kiện này của nguyên đơn là hoàn toàn tự nguyện, Hội đồng xét xử chấp nhận theo khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự và đình chỉ giải quyết đối với những yêu cầu đã rút trên của nguyên đơn.

[5]. Xét yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn ông Lê Văn H1 có nghĩa vụ trả số tiền nợ gốc là 15.400.000 đồng, Hội đồng xét xử thấy rằng: Để chứng minh cho việc bị đơn ông Lê Văn H1 có vay vốn, Công ty cung cấp cho Tòa án chứng cứ là hợp đồng cầm cố tài sản số STM230301014NA20X được ký giữa các bên ngày 14/3/2023 số đăng ký Giao dịch Đảm bảo trên Hệ thống Đăng ký Trực tuyến của Cục Đ: Giaodichdambao/botuphap: 1492541862 theo web https://dktructuyen.moj.gov.vn/ và phụ lục hợp đồng và Công ty đã giải ngân số tiền 15.400.000 đồng chuyển cho người thụ hưởng là Lê Văn H1 có số tài khoản 29280317 với nội dung chuyển tiền cho khách hàng Lê Văn H1; phiếu chi ngày 14/3/2023 số tiền 15.400.000 đồng có chữ ký của người nhận tiền là Lê Văn H1 và các giấy tờ khác có liên quan. Xét thấy, Hợp đồng cầm cố tài sản được các bên xác lập trên cơ sở tự nguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, không bị lừa dối hay bị ép buộc nên đây là hợp đồng hợp pháp phù hợp với quy định với Điều 309 Bộ luật Dân sự năm 2015; đồng thời, trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, các văn bản tố tụng và thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho ông H1 biết nhưng ông H1 không có ý kiến phản đối gì. Do đó, Hội đồng xét xử khẳng định ông H1 đã vay và nhận đủ của Công ty số tiền là 15.400.000 đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng ông H1 không trả tiền gốc và lãi cho Công ty khi đến hạn là vi phạm nghĩa vụ theo giao kết trong hợp đồng cầm cố, đã vi phạm Điều 4 của Hợp đồng cầm cố tài sản và Điều 4 của phụ lục hợp đồng mà các bên đã ký kết, ông H1 là người có lỗi, là người vi phạm hợp đồng nên phải chịu mọi hậu quả theo giao kết và theo quy định của pháp luật. Vì vậy, việc nguyên đơn Công ty yêu cầu bị đơn ông H1 phải trả cho Công ty số tiền vay gốc còn nợ 15.400.000 đồng là phù hợp theo quy định tại Điều 280, Điều 309, Điều 466 Bộ luật Dân sự 2015 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6]. Xét yêu cầu tính lãi của nguyên đơn, Hội đồng xét xử thấy rằng: Tại hợp đồng cầm cố tài sản số STM230301014NA20X ngày 14/3/2023 giữa Công ty và ông H1 đã giao kết mức lãi suất là 1,1%/tháng; lãi suất nợ gốc quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn. Do đó, mức lãi suất của hợp đồng các bên đã ký kết là phù hợp theo quy định tại khoản 6 Điều 29 Nghị định 96/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ, khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 và khoản 2 Điều 5 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nên bị đơn phải có nghĩa vụ trả lãi cho nguyên đơn theo hợp đồng đã giao kết. Việc bị đơn không thực hiện nghĩa vụ trả tiếp dư nợ gốc và lãi theo giao kết trong hợp đồng đã vi phạm hợp đồng cho vay mà các bên đã ký kết, bị đơn là người có lỗi và là người vi phạm hợp đồng nên phải chịu mọi hậu quả theo giao kết và theo quy định của pháp luật. Như vậy, ông H1 phải có nghĩa vụ trả cho Công ty số tiền lãi trong hạn theo giao kết của hợp đồng đến ngày 29/3/2024 với số tiền là 2.032.000 đồng là có căn cứ, phù hợp với nội dung thỏa thuận về việc tra nợ gốc lãi, chuyển nợ quá hạn tại hợp đồng cầm cố tài sản đa ky kết nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Như vậy, bị đơn ông Lê Văn H1 phải có nghĩa vụ hoàn trả cho nguyên đơn số tiền vay gốc còn nợ là 15.400.000 đồng, tiền lãi trong hạn theo giao kết trong hợp đồng đến ngay 29/3/2024 là 2.032.000 đồng, tổng cộng là 17.432.000 đồng. Do Công ty không yêu cầu ông H1 phải chịu lãi phát sinh theo hợp đồng kể từ ngày 30/3/2024 nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7]. Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn thống nhất trường hợp ngay sau khi ông H1 thực hiện xong nghĩa vụ trả tiền gốc và lãi sẽ giao trả lại cho ông H1 bản gốc giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 005345 do Công an tỉnh S cấp ngày 10/11/2020 đối với xe mô tô biển kiểm soát 83Z1-037.xx, loại xe Honda Vision; màu: Đen xám, số khung QLHJF5834LY115561, số máy JF86E2394301 đứng tên Lê Văn H1 nên Hội đồng xét xử ghi nhận [8]. Từ những phân tích nêu trên, xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị đơn phải chịu 871.600 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự; các điều 280, 309, 466, 468 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uy ban thương vu Quốc hội; Điều 26 Luật thi hành án dân sự.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần S Có Ngay.

1.1. Buộc bị đơn ông Lê Văn H1 có nghĩa vụ hoàn trả cho nguyên đơn Công ty cổ phần S Có Ngay số tiền nợ gốc là 15.400.000 đồng (Mười lăm triệu bốn trăm nghìn đồng) và tiền lãi tính đến ngày 29/3/2024 là 2.032.000 đồng (Hai triệu không trăm ba mươi hai nghìn đồng), tổng cộng là 17.432.000 đồng (Mười bảy triệu bốn trăm ba mươi hai nghìn đồng).

Khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày Công ty cổ phần S Có Ngay có đơn yêu cầu thi hành án thì hàng tháng ông Lê Văn H1 phải trả lãi cho Công ty cổ phần S Có Ngay đối với số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

1.2. Ngay sau khi ông Lê Văn H1 thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ thì Công ty cổ phần S có trách nhiệm trả lại cho ông H1 bản gốc giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 005345 do Công an tỉnh S cấp ngày 10/11/2020 đối với xe mô tô biển kiểm soát 83Z1-037.xx, loại xe Honda Vision; màu: Đen xám, số khung QLHJF5834LY115561, số máy JF86E2394301 đứng tên Lê Văn H1.

1.3. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc phát mãi tài sản là xe mô tô hai bánh biển kiểm soát 83Z1-037.xx, loại xe Honda Vision; màu: Đen xám, số khung QLHJF5834LY115561, số máy JF86E2394301; Số Giấy chứng nhận đăng ký xe môtô số 005345 do Công an tỉnh S cấp ngày 10/11/2020 do ông Lê Văn H1 đứng tên; khoản phí 3,5%/tháng và phí theo dõi 300.000 đồng mỗi tháng kể từ ngày ông H1 vi phạm nghĩa vụ thanh toán.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn ông Lê Văn H1 phải chịu 871.600 đồng (T trăm bảy mươi mốt nghìn sáu trăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Nguyên đơn Công ty cổ phần S Có Ngay không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; hoàn trả cho Công ty cổ phần S Có Ngay không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền tạm ứng án phí là 540.000 đồng (Năm trăm bốn mươi nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0003302, ngày 29/12/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bi đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày tống đạt hợp lệ bản án theo quy định pháp luật.

4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

58
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 30/2024/DS-ST về tranh chấp hợp đồng cầm cố tài sản

Số hiệu:30/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Phú - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;