TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG PHÚ, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 08/2023/DS-ST NGÀY 28/02/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CẦM CỐ TÀI SẢN
Ngày 28 tháng 02 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh S xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 137/2022/TLST – DS, ngày 21 tháng 11 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng cầm cố tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2023/QĐXXST- DS ngày 16 tháng 01 năm 2023, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1958; địa chỉ: Số X, ấp N, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh S (Vắng mặt).
Bị đơn: Ông Trần Văn H, sinh năm 1985; địa chỉ: Ấp L, xã L, huyện L, tỉnh S (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện ngày 25 tháng 7 năm 2022, cũng như các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông Nguyễn Văn N trình bày: Nguyên vào ngày 25 tháng 9 năm 2013 âm lịch (nhằm ngày 29 tháng 10 năm 2013), ông Trần Văn H và dịch vụ cầm đồ H do ông Nguyễn Văn N đại diện có ký hợp đồng cầm cố tài sản, để cầm cố chiếc xe mô tô, biển kiểm soát 83P1-xxxxx do ông Trần Văn H đứng tên kèm giấy đăng ký xe đi kèm, với số tiền 1.200.000 đồng (một triệu hai trăm nghìn đồng), lãi suất 6% trên tháng, thời gian hợp đồng 02 tháng sẽ chuộc lại xe. Tuy nhiên, ông N đã cho ông H mượn xe lại để làm phương tiện đi lại, riêng giấy tờ xe do ông N giữ. Lãi đóng hàng tháng, nếu quá hạn không đóng lãi thì ông H phải giao xe lại cho dịch vụ cầm đồ H quản lý theo hợp đồng, hợp đồng lập 2 bản, mỗi bên giữ một bản. Tuy nhiên, từ đó đến nay ông H không thực hiện việc trả vốn gốc, lãi và không giao lại xe cho dịch vụ cầm đồ H.
Tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 28/02/2023, nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc ông Trần Văn H phải trả cho ông Nguyễn Văn N số tiền gốc là 1.200.000 đồng và tiền lãi tính từ ngày ngày 29 tháng 10 năm 2013 cho đến ngày xét xử sơ thẩm với mức lãi suất 1%/tháng. Đối với tài sản cầm cố, trong quá trình thực hiện hợp đồng, dịch vụ cầm đồ H đã giao lại xe cho ông H mượn để làm phương tiện di chuyển, chỉ quản lý bản gốc giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển kiểm soát 83P1-xxxxx đứng tên Trần Văn H. Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn không có yêu cầu xử lý tài sản cầm cố, thống nhất trường hợp khi ông H thực hiện xong nghĩa vụ trả tiền vay gốc và lãi phát sinh sẽ giao trả lại cho ông H bản gốc giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô nhãn hiệu SIRIUS, số máy 5C63764417, số khung 30DY764345, biển kiểm soát 83P1-xxxxx đứng tên Trần Văn H.
- Đối với bị đơn ông Trần Văn H: Sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cho ông H, nhưng ông H không có ý kiến phản đối gì. Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông H hai lần để tham gia tố tụng tại phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông H vẫn vắng mặt không lý do. Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông H để tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm đến lần thứ hai nhưng ông H vẫn vắng mặt không có lý do và cũng không cung cấp cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Trần Văn H từ khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cho ông H nhưng ông không có ý kiến phản đối gì. Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông H hai lần để tham gia tố tụng tại phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông vẫn vắng mặt không lý do, Tại phiên tòa, nguyên đơn ông Nguyễn Văn N vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn ông Trần Văn H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông N và ông H.
[2]. Xét yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn phải có trách nhiệm trả cho nguyên đơn tiền gốc là 1.200.000 đồng đã nhận khi cầm cố tài sản. Hội đồng xét xử xét thấy: Để chứng minh cho yêu cầu của mình nguyên đơn cung cấp cho Tòa án chứng cứ là “Tờ hợp đồng của dịch vụ cầm đồ H, 25 tháng 9 năm 2013 âm lịch” có chữ ký của bị đơn Trần Văn H ở mục người nhận cầm đồ, kèm đăng ký mô tô, xe máy biển kiểm soát 83P1-xxxxx đứng tên Trần Văn H cùng các giấy tờ khác có liên quan để nhận số tiền 1.200.000 đồng. Xét thấy, về hình thức, nội dung hợp đồng cầm cố tài sản giữa ông H với dịch vụ cầm đồ H do ông Nguyễn Văn N đứng tên đại diện là trên cơ sở tự nguyện và phù hợp theo quy định pháp luật. Đồng thời, trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thông báo các tài liệu, chứng cứ mà bên nguyên đơn cung cấp và thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho ông H biết nhưng ông H không có ý kiến phản đối gì; đồng thời ông H đã giao giấy tờ gốc cho ông N quản lý. Do đó, Hội đồng xét xử khẳng định ông H có tiến hành cầm cố tài sản là mô tô biển kiểm soát 83P1-xxxxx và giấy đăng ký xe đi kèm do ông H đứng tên chủ sở hữu là có căn cứ. Quá trình thực hiện hợp đồng, khi đến hạn (02 tháng, kể từ ngày 29 tháng 10 năm 2013) thì ông H không đến dịch vụ cầm đồ H để trả số tiền 1.200.000 đồng kèm lãi để nhận lại tài sản, do đó ông H đã vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận theo hợp đồng, tính đến ngày 28/02/2023 ông H còn nợ nguyên đơn số tiền gốc là 1.200.000 đồng. Việc ông H không thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi theo giao kết trong hợp đồng đã vi phạm điều khoản chung mà các bên đã ký kết, là người có lỗi nên phải chịu mọi hậu quả theo giao kết của hợp đồng và quy định của pháp luật. Vì vậy, việc nguyên đơn yêu cầu ông H có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn số tiền gốc là 1.200.000 đồng là phù hợp theo quy định tại Điều 330 Bộ luật dân sự năm 2005 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3]. Về lãi suất: Tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt, nguyên đơn yêu cầu tính lãi theo mức lãi suất là 1%/tháng trên số tiền vốn gốc chưa thanh toán là 1.200.000 đồng, kể từ ngày 29 tháng 10 năm 2013 đến ngày xét xử sơ thẩm là ngày 28/02/2023 là 112 tháng. Tại thời điểm giao kết hợp đồng ngày 29 tháng 10 năm 2013 thì lãi suất các bên thỏa thuận là 6%/tháng, Hội đồng xét xử thấy rằng, tại khoản 1 Điều 476 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng”, theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, Bộ tài chính thì “đối với hợp đồng vay tài sản giao kết từ ngày 01/7/1996 trở đi thì việc tính lãi phải tuân theo các quy định của Bộ luật dân sự, số tiền lãi đã trả phải được giải quyết lại nếu mức lãi suất các bên thoả thuận cao hơn mức lãi suất do Bộ luật dân sự quy định và tại thời điểm xét xử sơ thẩm” và theo công bố của Ngân hàng Nhà nước tại Quyết định số 2868/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì mức lãi suất cơ bản là 9,0%/năm, tức 0,75%/tháng. Trên cơ sở đó, xét mức lãi suất nguyên đơn yêu cầu 1%/tháng là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận, cụ thể như sau: Lãi suất trên nợ gốc từ ngày 29 tháng 10 năm 2013 đến ngày 28 tháng 02 năm 2023 là: 112 tháng x 1.200.000 đồng x 1%/tháng = 1.344.000 đồng.
[4]. Từ những phân tích nêu trên, ông Trần Văn H có nghĩa vụ hoàn trả cho nguyên đơn số tiền gốc là 1.200.000 đồng, tiền lãi tính đến ngày 28/02/2023 la 1.344.000 đồng, tổng cộng là 2.544.000 đồng là phù hợp với quy định tại Điều 290, Điều 330 Bộ luật dân sự năm 2005. Khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày ông Nguyễn Văn N có đơn yêu cầu thi hành án thì hàng tháng ông Trần Văn H phải trả lãi cho ông N đối với số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
[5]. Đối với tài sản cầm cố, trong quá trình thực hiện hợp đồng, dịch vụ cầm đồ H đã giao xe mô tô biển kiểm soát 83P1-xxxxx cho ông H mượn lại để làm phương tiện di chuyển, chỉ quản lý bản gốc giấy đăng ký xe mô tô biển kiểm soát 83P1-xxxxx đứng tên Trần Văn H. Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn không có yêu cầu xử lý tài sản cầm cố, thống nhất trường hợp khi ông H thực hiện xong nghĩa vụ trả tiền gốc và lãi phát sinh sẽ giao trả lại cho ông H bản gốc giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô nhãn hiệu SIRIUS, số máy 5C63764417, số khung 30DY764345, biển kiểm soát 83P1-xxxxx đứng tên Trần Văn H nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[6]. Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; các điều 290, 330, 476 Bộ luật dân sự năm 2005; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều 26 Luật thi hành án dân sự.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Buộc ông Trần Văn H có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Văn N số tiền nợ gốc là 1.200.000 đồng (Một triệu hai trăm nghìn đồng) và tiền lãi tính đến ngày 28/02/2023 la 1.344.000 đồng (Một triệu ba trăm bốn mươi bốn nghìn đồng), tổng cộng là 2.544.000đồng (Hai triệu năm trăm bốn mươi bốn nghìn đồng).
Khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày ông Nguyễn Văn N có đơn yêu cầu thi hành án thì hàng tháng ông Trần Văn H phải trả lãi cho ông N đối với số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Trần Văn H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Nguyên đơn ông Nguyễn Văn N không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
3. Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn N về việc giao trả lại cho ông Trần Văn H bản gốc giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô nhãn hiệu SIRIUS, số máy 5C63764417, số khung 30DY764345, biển kiểm soát 83P1- xxxxx đứng tên Trần Văn H khi ông H thực hiện xong nghĩa vụ trả hết nợ gốc và lãi phát sinh cho nguyên đơn.
4. Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày tống đạt hợp lệ bản án theo quy định pháp luật.
5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng cầm cố tài sản số 08/2023/DS-ST
Số hiệu: | 08/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Long Phú - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 28/02/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về