TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN
BẢN ÁN 01/2021/KDTM-PT NGÀY 24/03/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM
Ngày 24/3/2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 01/2021/TLST-KDTM ngày 04 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2021/QĐST-KDTM ngày 12 tháng 3 năm 2021, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: ông Nguyễn Văn H – sinh năm 1963; trú tại: PD, XT, TX. S, Phú Yên, ủy quyền cho bà Lê Thị Lệ H1, trú tại: khu phố Chu Văn An, phường 5 thành phố Tuy Hòa (văn bản ủy quyền ngày 26/8/2018). Có mặt.
Bị đơn: Công ty cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng NN;
Địa chỉ: Tầng 6, Tòa nhà chung cư 29T1, HĐT, phường T, quận CG, Hà Nội. Do ông Nguyễn Viết T1– Giám đốc ABIC chi nhánh Khánh Hòa đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 22/3/2021) và ông Nguyễn Hoàng Quốc T2 - Trưởng phòng Giám định bồi thường ABIC chi nhánh Đà Nẵng đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 22/3/2021). Có mặt Người kháng cáo: Bị đơn Công ty cổ phần bảo hiểm Ngân hàng NN.
Cơ quan kháng nghị: Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh Phú Yên.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện ngày 15/10/2018, các tài liệu trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa đại diện nguyên đơn trình bày :
Ngày 05/02/2018, ông H thế chấp xe ô tô 78C 052.28 để vay tiền tại Ngân hàng NN và PTNT TX. S nên Ngân hàng yêu cầu ông H ký hợp đồng 03 bên với Cty CP Bảo hiểm ABIC - CN Khánh Hòa và Ngân hàng NN và PTNT TX. S để mua bảo hiểm Vật chất cho xe ô tô 78C 052.28 nhằm bảo đảm khoản tiền vay cho Ngân hàng cho ông H vay 1.000.000.000đ và Cty CP Bảo hiểm ABIC - CN Khánh Hòa cấp cho ông H Giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện số TN 180004535 với số tiền 1.700.000.000đ.
Ngày 12/03/2018, xe ô tô 78C 052.28 lưu hành trên QL1A thuộc TX. Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế thì bị xe ô tô biển số 15C-186.54/15R100.55 tông vào gây tai nạn làm hư hỏng, ông H báo ngay cho Cty CP Bảo hiểm ABIC - CN Khánh Hòa và phòng khu vực Phú Yên để hỗ trợ, giải quyết bồi thường, ngày 20/3/2018 Công an TX. Hương Trà mời Cty ô tô Trường Long và anh D1 là Giám định viên của ABIC Thừa Thiên Huế cùng xác định thiệt hại phần vỏ xe 78C 052.28. Đến ngày 28/3/2018 Công an TX. Hương Trà yêu cầu ông H kéo xe 78C 052.28 đến Gara của Công ty ô tô Trường Long tại Đà Nẵng để tiếp tục giám định thiệt hại bộ phận máy xe.
Ngày 20/3/2018, ông H có đơn chuyển giao quyền yêu cầu đòi bồi thường cho Cty ABIC - CN Huế theo đúng quy định tại Điều 49 của Luật kinh doanh Bảo Hiểm. Có nghĩa là ABIC Khánh Hòa có trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại cho xe ông H, sau đó có quyền yêu cầu chủ xe và tài xế xe 15C-186.54/15R100.55 bồi hoàn cho ABIC Khánh Hòa. Do đó, việc giám định thiệt hại xe 78C 052.28 chỉ căn cứ vào kết quả giám định thiệt hại của cơ quan bảo hiểm mà không căn cứ vào cơ quan chức năng.
Từ đó đến nay đã quá thời hạn bồi thường mà ABIC Khánh Hòa cam kết tại Điều 10 của Hợp đồng bảo hiểm.
Theo văn bản số 927/2018/TB-ABIC.ĐN-GĐBT (Đà Nẵng) về việc duyệt chi phí khắc phục xe ô tô 78C 052.28 với tổng số tiền 794.055.000đ, mặc dù số tiền trên chưa đủ bồi thường tổn thất đối với xe ông H vì xe ông H tham gia bảo hiểm điều kiện chọn hãng, nhưng cũng không được bảo hiểm thanh toán.
Đến ngày 14/9/2018, ABIC Đà Nẵng có văn bản số: 998/2018/CVABIC.ĐN- GĐBT cho rằng: Đây là chi phí hợp lý mà ABIC đồng ý để chủ xe tiến hành khắc phục, chưa xác nhận phạm vi trách nhiệm bảo hiểm do Công an chưa điều tra xong nên không bồi thường, với nội dung trên là lừa dối khách hàng.
Vậy, nay đại diện ông H yêu cầu Tổng Công ty bảo hiểm Ngân hàng NN - Chi nhánh Khánh Hòa phải bồi thường toàn bộ tổn thất đối với xe 78C 052.28 theo bản án số 102/2019/HS-PT ngày 08-8-2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử là 838.895.244đ và đồng ý trừ 4.055.000đ về khoản phụ tùng nếu được sửa chữa thay mới thì còn giá trị sử dụng như đề nghị của bị đơn. Sau khi tai nạn xảy ra, phía Công ty Bảo hiểm không thanh toán kịp thời nên yêu cầu phải trả lãi chậm trả trên số tiền chậm trả 834.840.244đ với lãi suất 10%/năm kể từ ngày12/5/2018 đến khi thanh toán xong khoản tiền bảo hiểm.
Ngoài ra, nay yêu cầu bị đơn phải trả thêm khoản tiền gửi xe 78C -052. 28 tại Công ty cổ phần kỹ thuật và ô tô Trường Long từ ngày 28/3/2018 đến ngày 29/11/2018 với số tiền 36.750.000đ. Bởi vì, khoản tiền giữ xe này cũng thuộc khoản thiệt hại do bị đơn chậm thực hiện việc bồi thường.
Ông H đã thanh toán xong khoản tiền vay liên quan đến xe ô tô 78C 052.28 tại Chi nhánh Ngân hàng NN TX. S vào ngày 22/10/2018 (theo đơn đề nghị xác nhận ngày 02/01/2020).
* Đại diện bị đơn trình bày:
Ngày 12/3/2018, ABIC nhận được thông tin tai nạn xe ô tô biển kiểm soát 78C- 052.28 của chủ xe là ông Nguyễn Văn H với xe ô tô biển kiểm soát 15C-186.54 kéo theo rơ móc biển kiểm soát 15R-100.15 xảy ra tai nạn tại KM 810_850 QL 1A thuộc địa phận phường Tứ Hạ, TX. Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. ABIC đến hiện trường thu thập thông tin làm việc với các bên liên quan vụ tai nạn, hướng dẫn đại diện chủ xe 78C-052.28 cung cấp hồ sơ ban đầu.
Từ ngày 11/4/2018 đến ngày 24/4/2018 đại diện BIC tại Đà Nẵng phối hợp với đại diện công ty Cổ phần Kỹ thuật & Ô tô Trường Long giám định tổn thất chi tiết ô tô biển kiểm soát 78C-052.28 tại xưởng sửa chữa thuộc xã Hòa Châu, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Đại diện chủ xe vẫn chưa cung cấp các hồ sơ đã được hướng dẫn ban đầu vào ngày 12/3/2018, ngày 05/7/2018, ABIC đã gửi văn bản số 724/2018/CV-ABIC.ĐN-GĐBT về việc cung cấp hồ sơ tổn thất xe 78C-052.28.
Ngày 10/7/2018, ABIC nhận được hồ sơ từ đại diện chủ xe 78C-052.28 theo nội dung văn bản số 724/2018/CV-ABIC.ĐN-GĐBT qua đường bưu điện.
Ngày 11/7/2018, ABIC có văn bản duyệt chi phí khắc phục hợp lý tổn thất xe ô tô biển kiểm soát 78C-052.28 (phần cabin) số 2714/2018/TB-ABIC-HĐBT.
Ngày 15/8/2018, đại diện chủ xe 78C-052.28 gửi hồ sơ và yêu cầu duyệt chi phí khắc phục bổ sung liên quan đến chi phí khắc phục phần thùng xe và chi phí cứu hộ tại hiện trường.
Ngày 30/8/2018, ABIC có văn bản duyệt chi phí khắc phục bổ sung tổn thất xe ô tô biển kiểm soát 78C-052.28 số 927/2018/TB-ABIC-GĐBT. Cụ thể:
- Chi phí khắc phục thùng xe: 30.860.000đ;
- Chi phí cứu hộ: 5.000.000đ;
- Chi phí sửa chữa xe lần 1 (chưa bao gồm thùng xe):758.195.000đ.
Tổng cộng toàn bộ chi phí khắc phục tổn thất xe 78C-052.28 liên quan đến vụ tai nạn ngày 12/3/2018 là: 794.055.000đ (chưa bao gồm VAT).
Ngày 13/9/2018 ABIC nhận được văn bản đề nghị chấp nhận chi phí khắc phục đề ngày 06/9/2018 của ông Nguyễn Văn H. Số tiền chủ xe 78C-052.28 chấp nhận là 794.055.000đ (theo đúng số tiền mà ABIC phê duyệt chi phí khắc phục). Đồng thời, chủ xe yêu cầu ABIC chuyển ngay số tiền này về ngân hàng NN phát triển nông thôn chi nhánh S để chủ xe trả nợ ngân hàng. Thời điểm này, xe 78C-052.28 vẫn chưa tiến hành sửa chữa.
Ngày 14/9/2018, ABIC gửi văn bản số 998/2018/CV-ABIC>ĐN-GĐBT phúc đáp đơn đề ngày 06/9/2018 của ông Nguyễn Văn H, theo đó, ABIC chưa thể chuyển ngay số tiền này theo đề nghị của chủ xe 78C-052.28. Bởi lẽ, đến thời điểm 14/9/2018, vụ tai nạn vẫn đang trong quá trình giải quyết của các cơ quan chức năng nên ABIC chưa thể xác định trách nhiệm của ABIC đối với vụ tai nạn này, số tiền 794.055.000VNĐ chỉ là số tiền khắc phục hợp lý đối với xe ô tô 78C-052.28 bị tai nạn.
Ngày 12/10/2018, đại diện ABIC cùng làm việc với đại diện chủ xe 78C- 052.28, lái xe 15C-185.54 và đại diện cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Ngày15/10/2018,ABIC gửi văn bản số 1154/2018/CV-ABIC.ĐN-ĐGBT và 1155/2018/CV-ABIC.ĐN-ĐGBT đến Công an thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế đề nghị hỗ trợ, trích sao kết luận điều tra, các hồ sơ liên quan trong vụ tai nạn.
Ngày 29/10/2018, ABIC nhận được văn bản số 613/CV đề ngày 24/10/2018 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế trả lời văn bản số 1154/2018/CV-ABIC.ĐN-ĐGBT và hồ sơ tai nạn đính kèm.
Ngày 15/12/2018, ABIC gửi văn bản số 1441/2018/CV-ABIC.ĐN-ĐGBT đề nghị ông Nguyễn Văn H cung cấp hồ sơ để hoàn tất việc chi trả bồi thường tổn thất xe ô tô biển kiểm soát 78C-052.28 nhưng đến nay vẫn chưa được đầy đủ.
Nay ABIC chỉ đồng ý chi trả bồi thường cho ông Nguyễn Văn H số tiền 794.055.000đtheo kết quả giám định thiệt hại của công ty Trường Long chứ không đồng ý bồi thường số tiền 838.895.244đ theo bản án của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, vì ngày 06/9/2018 ông H có văn bản đồng ý chấp nhận với số tiền 794.055.000đvà ông H đề nghị Bảo hiểm chuyển vào tài khoản Ngân hàng mà ông giao dịch. Ngoài ra, ông H yêu cầu khoản tiền lãi thì Bảo hiểm không đồng ý với lý do đến tháng 12/2019 Bảo hiểm mới biết được Tòa án tỉnh Thừa Thiên Huế đã xử xong vụ việc tai nạn này nên Bảo Hiểm không có lỗi về việc chậm thanh toán.
Quá trình giải quyết vụ việc, ông H không cung cấp cho Công ty bảo hiểm các tài liệu liên quan đến vụ tai nạn mà phía Công ty Bảo Hiểm yêu cầu ông H cung cấp. Tại phiên tòa, đại diện bị đơn đồng ý bồi thường cho ông H 838.895.244đ nhưng yêu cầu trừ 4.055.000đ về khoản phụ tùng nếu được sửa chữa thay mớithì còn giá trị sử dụng nên còn đồng ý bồi thường 834.840.244đ; không đồng ý trả lãi và chi phí giữ xe 36.750.000đ theo yêu cầu của nguyên đơn.
Tại bản án số 07/KDTM-ST ngày 30/10/2020 của TAND TP Tuy Hòa đã quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn H tại đơn khởi kiện ngày 15/10/2018.
Buộc Công ty cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng NN(ABIC) phải bồi thường ông Nguyễn Văn H số tiền 1.067.899.719đ (một tỷ không trăm sáu mươi bảy triệu tám trăm chín mươi chín nghìn bảy trăm mười chín đồng) về khoản hợp đồng bảo hiểm.
Sau khi Công ty cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng NN(ABIC) bồi thường xong số tiền1.067.899.719đ cho ông Nguyễn Văn H thì Công ty cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng NN(ABIC) có quyền làm đơn yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền để thi hành khoản tiền mà bản án Hình sự phúc thẩm số 102/2019/HS-PT ngày 08-8- 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế buộc Công ty TNHH phát triển Thương mại và Vận tải Phương Linh bồi thường cho ông Nguyễn Văn H đối với số tiền 838.895.244đ.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 11/11/2020 bị đơn Công ty cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng NN kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Đến ngày 14/01/2021, bị đơn có kháng cáo bổ sung, thông báo đã thanh toán cho nguyên đơn ông Nguyễn Văn H số tiền 871.590.244đ, trong đó có khoản tiền bồi thường thiệt hại 834.840.244đ, chỉ kháng cáo về khoản tiền chi phí giữ xe 36.750.000đ và tiền lãi chậm bồi thường 196.309.475đ.
Ngày 13/11/2020 Viện kiểm sát nhân dân thành phố T kháng nghị tại quyết định số 06/QĐKNPT-VKD-DS về phần tính lãi chậm trả.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
-Đại diện theo ủy quyền của bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
- Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phúc thẩm: Về thủ tục tố tụng Thẩm phán Hội đồng xét xử phúc thẩm, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ pháp luật tố tụng quy định; Về nội dung: Bản án sơ thẩm đã buộc Công ty cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng NN phải bồi thường cho ông Nguyễn Văn H số tiền 1.067.899.719đ, trong đó số tiền xe ô tô bị thiệt hại 834.840.244đ, tiền chi phí gửi giữ xe 36.750.000đ, tiền lãi chậm trả 196.309.475đ là có căn cứ, đúng pháp luật; Kiểm sát viên rút lại kháng nghị số 06/QĐKNPT-VKD- DS ngày 13/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T; Đề nghị HĐXX phúc thẩm căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 bác kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của các bên đương sự, của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa phúc thẩm Kiểm sát viên rút toàn bộ kháng nghị số 06/QĐKNPT-VKD-DS ngày 13/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, Hội đồng xét xử phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với nội dung kháng nghị.
[2] Về kháng cáo của bị đơn – không đồng ý bồi thường khoản tiền chi phí giữ xe 36.750.000đ: Về căn cứ bồi thường tại khoản 3 Điều 46 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2010 quy định “Ngoài số tiền bồi thường, doanh nghiệp bảo hiểm còn phải trả cho người được bảo hiểm những chi phí cần thiết, hợp lý để đề phòng, hạn chế tổn thất và những chi phí phát sinh mà người được bảo hiểm phải chịu để thực hiện chỉ dẫn của doanh nghiệp bảo hiểm”; Về tài liệu, chứng từ bồi thường, tại điểm c mục 11.1 Điều 11 của Quy định về việc ban hành quy tắc bảo hiểm tự nguyện xe ô tô số 5000/2018/QĐ-ABIC-PHH ngày 12/12/2018 quy định “…; Các chứng từ hợp lý, hợp lệ liên quan đến bảo vệ và cứu hộ xe tai nạn…”. Quy định trên cho thấy khoản tiền chi phí giữ xe là một khoản tiền cơ quan bảo hiểm phải bồi thường cho người mua bảo hiểm. Bản án sơ thẩm đã buộc bị đơn phải bồi thường cho nguyên đơn khoản tiền chi phí giữ xe 36.750.000đ là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Về kháng cáo của bị đơn về khoản tiền lãi 196.309.475đ:
Về việc trả tiền bồi thường bảo hiểm: Tại Điều 10 của Hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới lập ngày 05/02/2018, giữa bên A ông Nguyễn Văn H và bên B CTY CPBH NHN0- CN KHÁNH HÒA đã thỏa thuận “Trong mọi trường hợp không may xảy ra rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm của ABIC, ABIC có trách nhiệm xem xét và giải quyết bồi thường trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ và không kéo dài quá 30 ngày trong trường hợp phải xác minh hồ sơ”; và Tại Điều 29 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 quy định “Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường theo thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm; trong trường hợp không có thỏa thuận về thời hạn thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ về yêu cầu trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường”.
Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn cho rằng ông H đã giao cho Công ty cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng NN đầy đủ hồ sơ về yêu cầu trả bảo hiểm vào ngày 20/3/2018, nhưng không có chứng cứ chứng minh thể hiện sự giao nộp đầy đủ hồ sơ yêu cầu trả bảo hiểm. Tuy nhiên, tại công văn số 0741/2019/CV-ABIC.KH-GĐBT ngày 24/4/2019 của ABIC chi nhánh Khánh Hòa xác nhận “Ngày 10/7/2018, ABIC nhận được hồ sơ từ đại diện chủ xe 78C-052.28 theo nội dung văn bản số 724/2018/CV-ABIC.ĐN-GĐBT qua đường bưu điện. Do đó, thời hạn trả tiền bảo hiểm đã phát sinh theo sự thỏa thuận tại Điều 10 của hợp đồng bảo hiểm ngày 05/02/2018 là 30 ngày kể từ ngày 10/7/2018, tức là ngày 10/8/2018.
Ngày 25/8/2018, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Hương Trà có Thông báo số 229/TB về kết quả giám định tài sản xe ô tô BSĐK 78C-052.28 thiệt hại 838.895.244đ, đối với số thiệt hại trên ABIC cho rằng cần chờ cơ quan chức năng xác định lỗi của người thứ ba tức là đang có tranh chấp. Ngày 30/8/2018, ABIC có văn số 927/2018/TB_ABIC-GĐBT duyệt chi khắc phục tổn thất xe ô tô biển kiểm soát 78C- 052.28 tổng số tiền là 794.055.000đ. Ngày 06/9/2018, ông H có văn bản đồng ý nhận số tiền 794.055.000đ với điều kiện chuyển toàn bộ số tiền trên cho Ngân hàng NN và phát triển nông thôn – chi nhánh thị xã S trước ngày 15/9/2018. Đây là sự thay đổi thể hiện ý chí tự nguyện của người mua bảo hiểm. Tuy nhiên, Công ty cổ phần bảo hiểm NN chi nhánh Khánh Hòa đã không thực hiện nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm cho ông H, nên phải chịu lãi suất chậm trả theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 từ ngày 15/9/2018 đến ngày 07/8/2019 (trước ngày bản án hình sự phúc thẩm số 102/2019/HSPT ngày 08/8/2019 có hiệu lực pháp luật) với mức lãi suất 10%/ năm là 0,83%/ tháng nhưng nguyên đơn chỉ yêu cầu 0,8% nên chấp nhận với mức 0,8%/tháng đối với số tiền 794.055.000đ; còn từ ngày 08/8/2019 (ngày bản án hình sự phúc thẩm số 102/2019/HSPT ngày 08/8/2019 có hiệu lực pháp luật) đến ngày xét xử sơ thẩm 30/10/2020 với lãi suất 0,8%/tháng đối với số tiền 834.840.244đ, cụ thể:
-Từ ngày 15/9/2018 đến ngày 07/8/2019 là 10 tháng 22 ngày x lãi suất 0,8% x số tiền 794.055.000đ tương ứng là 68.182.896đ.
-Từ ngày 08/8/2019 đến ngày 30/10/2020 là 01 năm 02 tháng 22 ngày x lãi suất 0,8% x số tiền 834.840.244đ tương ứng số tiền 98.399.836đ.
Tổng số tiền lãi chậm trả tiền bảo hiểm là 166.582.732đ.
Bản án sơ thẩm xác định thời gian phát sinh tính lãi trách nhiệm chậm trả từ ngày 12/5/2018 là chưa chính xác, nên cần sửa một phần quyết định của bản án sơ thẩm về khoản tiền lãi chậm trả như trên. Tổng cộng các khoản Công ty cổ phần bảo hiểm Ngân hàng NN phải bồi thường cho ông Nguyễn Văn H là 1.038.172.976đ, trong đó: thiệt hại xe 834.840.244đ, tiền gửi giữ xe 36.750.000đ, tiền lãi chậm trả 166.582.732đ. Công ty cổ phần bảo hiểm NN đã tự nguyện trả sau khi xét xử sơ thẩm 871.590.244đ, nên còn phải tiếp tục trả cho ông H số tiền 166.582.732đ.
[6] Về án phí: Do sửa án sơ thẩm nên bị đơn không phải chịu án phí KDTM phúc thẩm. Về án phí KDTM sơ thẩm: Sau khi xét xử sơ thẩm bị đơn đã tự nguyện thi hành trả tiền bảo hiểm cho nguyên đơn số tiền 871.590.244đ, chỉ còn tiếp tục bồi thường số tiền 166.852.732đ. Do đó, án phí KDTM ST được tính lại là 8.329.136đ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 4 Luật thương mại; các Điều 12, 13, 15, 17, 18, 19, 29, 49 Luật kinh doanh bảo hiểm; Điều 357 và Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 308 và Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn, sửa một phần bản án sơ thẩm về khoản tiền lãi chậm trả.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn H tại đơn khởi kiện ngày 15/10/2018.
Buộc Công ty cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng NN (ABIC) phải bồi thường ông Nguyễn Văn H số tiền 1.038.172.976đ đã bồi thường 871.590.244đ, còn phải tiếp tục trả số tiền 166.582.732đ về khoản tiền lãi chậm trả tiền bảo hiểm.
Sau khi Công ty cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng NN(ABIC) bồi thường xong số tiền 166.852.732đ cho ông Nguyễn Văn H thì Công ty cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng NN(ABIC) có quyền làm đơn yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền để thi hành khoản tiền mà bản án Hình sự phúc thẩm số 102/2019/HS-PT ngày 08-8- 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế buộc Công ty TNHH phát triển Thương mại và Vận tải Phương Linh bồi thường cho ông Nguyễn Văn H đối với số tiền 838.895.244đ.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị đơn chưa trả khoản tiền trên thì hàng tháng phải chịu lãi, theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015, tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án Án phí: Bị đơn phải chịu 8.329.136đ án phí KDTM/ST và được khấu trừ 2.000.000đ tiền tạm ứng án phí KDTM-PT tại phiếu thu số 0694 ngày 27/11/2020 tại Chi cục THADS TP T; Bị đơn còn phải nộp 6.166.636đ.
Hoàn trả cho Nguyên đơn số tiền 19.697.000đ (mười chín triệu sáu trăm chín mươi bảy nghìn đồng) tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số 0012289 ngày 18-3- 2019 của Chi cục thi hành án dân sự TP. T.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
Bản án về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm số 01/2021/KDTM-PT
Số hiệu: | 01/2021/KDTM-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Phú Yên |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 24/03/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về