Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số XX/2021/HNGĐ-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN XX/2021/HNGĐ-PT NGÀY 27/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 27 tháng 1 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 37/2020/TLPT- HNGĐ ngày 17 tháng 11 năm 2020 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”.

Do bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm 25/2020/HNGĐ-ST ngày 29/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện T bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 01/2021/QĐXXPT- HNGĐ ngày 05/01/2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị A, sinh năm 1998; Địa chỉ: Khu 3, xã D, huyện T, tỉnh Phú Thọ.

Bị đơn: Anh Tạ Công Đ, sinh năm 1997; Địa chỉ: Khu 3, xã D, huyện T, tỉnh Phú Thọ.

(Có mặt).

Ngưi kháng cáo: Bị đơn là Anh Tạ Công Đ

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 03/7/2020 và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị A trình bày: Chị A và anh Đ có tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn vào ngày 22/9/2017 tại UBND xã D, huyện T, tỉnh Phú Thọ. Sau Khi kết hôn vợ chồng về chung sống cùng bố mẹ anh Đ tại khu 3, xã D, huyện T, tỉnh Phú Thọ. Trong quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến đầu năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh Đ có quan hệ bất chính, bỏ bê vợ con, dẫn đến bất đồng quan điểm sống thường xảy ra đánh cãi nhau. Đến ngày 19/6/2020 Chị A đã về nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay, trong thời gian sống ly thân thì hai bên không quan tâm gì tới nhau nữa, nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn ngắn được chị xin được ly hôn anh Đ.

Về con chung: Vợ chồng tôi có 01 con chung:

- Cháu Tạ Phương H, sinh ngày 15/9/2017;

Hiện nay cháu H đang ở với anh Đ. Khi ly hôn thì chị xin được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản; về nợ và cho vay nợ; về công sức đóng góp cho gia đình: Chị xác định vợ chồng không có nên không yều cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến trình bày của bị đơn anh Tạ Công Đ: Anh Đ xác nhận lời khai của Chị A về thời gian và điều kiện kết hôn là đúng. Vợ chồng anh,chị sống hạnh phúc đến đầu năm 2020 thì xảy ra mâu thuẫn, vợ chồng cãi vã. Nguyên nhân là do Chị A ghen tuông, không tin tưởng anh. Đến ngày 19/6/2020 thì Chị A về nhà bố mẹ đẻ ở và anh, chị không liên lạc gì với nhau nữa, nhưng tôi vẫn còn tình cảm với Chị A. Nay Chị A xin ly hôn thì anh không đồng ý, bởi vì anh mong muốn Đ tụ để cùng nuôi dạy con chung.

Về con chung: Anh xác định vợ,chồng có 1 con chung là Cháu Tạ Phương H, sinh ngày 15/9/2017. Hiện nay cháu H đang ở với gia đình anh. Nếu ly hôn thì anh xin được nuôi con chung và không yêu cầu Chị A cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh.

Về tài sản; về nợ và cho vay nợ; về công sức đóng góp cho gia đình: Anh xác định vợ chồng không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm 25/2020/HNGĐ-ST ngày 29/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện T đã Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 271, khoản 1 và khoản 3 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị A được ly hôn anh Tạ Công Đ.

[2] Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị A được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung là Tạ Phương H, sinh ngày 15/9/2017 đến khi con chung thành niên và có khả năng lao động.

Anh Tạ Công Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng Chị A vì Chị A tự nguyện không yêu cầu. Anh Đ được quyền thăm gặp và chăm sóc con chung mà không ai được ngăn cấm, cản trở.

[3] Về tài sản chung, về nợ, về công sức đóng góp cho gia đình: Chị A và anh Đ đều xác nhận không có nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

Bản án còn tính án phí, tuyên quyền kháng cáo và quyền yêu cầu thi hành án.

Ngày 05/10/2020 anh Tạ Công Đ kháng cáo đề nghị được nuôi con chung.

Tại phiên tòa hôm nay anh Tạ Công Đ giữ nguyên nội dung đã kháng cáo, anh Tạ Công Đ trình bày xin được nuôi con chung.

Đại diện viện kiểm sát nhân dân dân tỉnh Phú Thọ có quan điểm: về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán, Hội đồng xét xử phúc thẩm và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng, đúng qui định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Hùng, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy rằng:

[1] Về tố tụng: Kháng cáo của anh Tạ Công Đ trong thời hạn luật định, được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về nội dung kháng cáo xin được nuôi con chung của anh Tạ Công Đ. Xét thấy:

Chị A và anh Đ có 1 con chung là Cháu Tạ Phương H, sinh ngày 15/9/2017. Hiện nay cháu H đang ở với bố mẹ anh Đ. Theo biên bản xác minh ngày 20/8/2020, hiện tại cháu H đang ở với bố mẹ anh Đ, còn anh Đ đi làm ăn thỉnh thoảng mới về nhà, còn Chị A mặc dù khi ly thân thì gia đình anh Đ không cho chị mang con theo nhưng chị vẫn thường xuyên về thăm gặp con. Bản thân Chị A và anh Đ đều có công việc và thu nhập ổn định. khi ly hôn, hai bên đều xin được nuôi con chung và không yêu cầu bên kia cấp dưỡng nuôi con chung cùng nhau. Xét nguyện vọng của hai bên là chính đáng nhưng cần xem xét các yếu tố đảm bảo quyền và lợi ích cho con chung, cháu H còn nhỏ, cần được sự chăm sóc trực tiếp của người mẹ, hơn nữa anh Đ có nguyện vọng nuôi con nhưng anh đi làm ăn xa thỉnh thoảng mới về nhà không trực tiếp nuôi con, nên cần giao cháu H cho Chị A trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là phù hợp.

Từ những nhận định trên, kháng cáo của anh Tạ Công Đ không có cơ sở chấp nhận, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp.

[3] Về án phí phúc thẩm: Anh Tạ Công Đ phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ khoan 1 Điều 28; Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 271, khoản 1 và khoản 3 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận đơn kháng cáo của anh Tạ Công Đ.

Giữ nguyên bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 25/2020/HNGĐ-ST ngày 29/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện T tỉnh phú thọ

Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị A được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung là Tạ Phương H, sinh ngày 15/9/2017 đến khi con chung thành niên và có khả năng lao động.

Anh Tạ Công Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng Chị A vì Chị A tự nguyện không yêu cầu. Anh Đ được quyền thăm gặp và chăm sóc con chung mà không ai được ngăn cấm, cản trở.

[3] Về án phí phúc thẩm: Anh Tạ Công Đ phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân và gia đình phúc thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền 300.000.đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2019/0002689 ngày 13/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Phú Thọ.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không giải quyết, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số XX/2021/HNGĐ-PT

Số hiệu:XX/2021/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;