Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 93/2020/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 93/2020/HNGĐ-ST NGÀY 23/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 23/9/2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 103/2020/TLST-HNGĐ ngày 16/7/2020 về việc “Tranh chấp Hôn nhân và Gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 106/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 14/8/2020 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Lê Thị V . Sinh năm 1993.

Địa chỉ: Xóm 5B, xã V, huyện V, tỉnh Nghệ An. Có mặt.

* Bị đơn: Anh Nguyễn Thế A . Sinh năm 1991.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Xóm 5B, xã V, huyện V, tỉnh Nghệ An. Hiện đang ở CHLB Đức. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 11/02/2020, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Lê Thị Vtrình bày: Chị và anh Nguyễn Thế A kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân D, huyện V, tỉnh Nghệ An vào ngày 24/3/2014. Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung hạnh phúc. Ngày 30/8/2018, anh Thế A đi xuất khẩu lao động tại CHLB Đức. Mẫu thuẫn vợ chồng phát sinh từ đó. Lúc đầu là những mâu thuẫn nhỏ nhặt từ tiền bạc dẫn đến tình cảm vợ chồng rạn nứt, phai nhạt dần. Hiện nay theo thông tin chị được biết anh Thế A đã sống chung với người phụ nữ khác; không còn quan tâm, chăm sóc vợ con. Tình cảm vợ chồng không còn nên chị Vđề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Thế A. Hiện nay, chị không biết địa chỉ của anh Thế A ở nước ngoài nhưng qua thông tin chị được biết anh Nguyễn Thế A thường xuyên liên lạc với chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1975, địa chỉ: Xóm 5A, xã C, huyện C, tỉnh Nghệ An là chị gái của anh Thế A.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Khánh B, sinh ngày 01/01/2015 và Nguyễn Hạ B, sinh ngày 15/01/2019. Hiện tại cả hai cháu đang ở với chị Vinh, do chị V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Ly hôn, chị Lê Thị Vcó nguyện vọng được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung cho đến khi các cháu đủ tuổi trưởng thành. Tại đơn khởi kiện chị yêu cầu anh Thế A phải cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng cho mỗi cháu nhưng quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm chị Vcho biết hiện nay chị chưa yêu cầu anh Thế A cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về phía anh Nguyễn Thế A: Sau khi thu lý vụ án , Tòa án đã gửi các văn bản tố tụng : Thông báo thụ lý vụ án kèm theo đơn khởi kiện của chị Lê Thị V ; yêu cầu anh Thế A có quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án ; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; … cho anh Nguyễn Thế A thông qua chị Nguyễn Thị T là chị gái của anh Thế A do bố mẹ anh Thế A đã chết; đồng thời tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng nêu trên tại trụ sở UBND xã V, huyện C và nơi cư trú cuối cùng tại Việt Nam của anh Thế A, nhưng hiện tại anh Thế A vắng mặt không có lý do và cũng không có văn bản trình bày y kiên gửi cho Tòa án.

Quá trình xác minh được chị Nguyễn Thị T cung cấp: Anh Nguyễn Thế A là em trai của chị T . Bố mẹ của chị T và anh Thế A là ông Nguyễn Thế H và bà Nguyễn Thị Th đều đã chết. Anh Thế A đi xuất khẩu lao động sang Cộng hòa liên bang Đức từ tháng 8/2018 cho đến nay và thường xuyên liên lạc về với chị T . Chị đã nhận được Thông báo thụ lý vụ án và Công văn của Tòa án yêu cầu cung cấp địa chỉ của anh Thế A ở nước ngoài, chị đã thông báo cho anh Thế A biết nhưng do anh Thế A đi lao động bất hợp pháp nên không thể cung cấp địa chỉ cho chị để chị cung cấp cho Tòa án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Thư ký , Hội đồng xét xử tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Việc thu thập chứng cứ thực hiện đung quy đinh. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng, bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã yêu cầu chị Nguyễn Thị T (chị ruột anh Nguyễn Thế A) cung cấp địa chỉ của anh Thế A ở nước ngoài cho Tòa án nhưng chị Tân không cung cấp. Qua xác minh tại chị Tân thì có cơ sở xác định bị đơn vẫn có liên hệ về với gia đình và đã biết được Tòa án đang thụ lý giải quyết việc chị V làm đơn yêu cầu ly hôn nhưng bị đơn vẫn không liên lạc, cũng không cung cấp địa chỉ để Tòa án tiến hành ủy thác tư pháp cho bị đơn theo quy định của pháp luật nên cần xác định đây là trường hợp bị đơn cố tình dấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết. Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cho chị Lê Thị Vđược ly hôn với anh Nguyễn Thế A. Giao hai con chung là Nguyễn Khánh B, sinh ngày 01/01/2015 và Nguyễn Hạ B, sinh ngày 15/01/2019, cho chị Vtrực tiếp nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con: Do chị V chưa yêu cầu nên chưa xem xét. Anh Nguyễn Thế A có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, chị V có quyền yêu cầu cấp dưỡng nuôi con bằng một vụ án khác. Về tài sản, nợ chung: Chị Vkhông yêu cầu giải quyết nên đề nghị không xem xét. Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án không nhận được ý kiến của anh Thế A nên dành quyền khởi kiện cho anh Thế A khi có yêu cầu. Chị V phải chịu án phí theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của nguyên đơn, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Nguyễn Thế A hiện đang ở nước ngoài. Thông qua lời khai của chị Nguyễn Thị T là chị gái của anh Nguyễn Thế A thì có căn cứ xác định hiện nay anh Nguyễn Thế A đang cư trú tại Cộng hòa liên bang Đức và có thường xuyên liên lạc về với gia đình. Anh Nguyễn Thế A đã biết được việc chị Lê Thị Vlàm đơn xin ly hôn đối với anh tại Tòa án nhưng anh không cung cấp địa chỉ và gửi văn bản trình bày ý kiến về cho Tòa án. Tòa án đã yêu cầu đến lần thứ hai mà thân nhân của anh Thế A cũng không cung cấp địa chỉ, tin tức của anh Thế A. Do đó, việc anh Nguyễn Thế A vắng mặt thuộc trường hợp cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo theo hướng dẫn tại Công văn số 253/TATC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân tối cao về việc giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài không rõ địa chỉ. Vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 2 Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự. Anh Thế A đã được triệu tập hợp lệ vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai ; Căn cứ vào khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự , Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

[2] Về tình cảm: Chị Lê Thị V và anh Nguyễn Thế A kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung hạnh phúc. Đến tháng 8/2018, anh Thế A đi xuất khẩu lao động tại Cộng hòa liên bang Đức thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng thiếu tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau. Hiện nay, chị V và anh Thế A không còn liên lạc với nhau, không quan tâm, chăm sóc nhau. Quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án anh Thế A đã biết được việc chị Vyêu cầu ly hôn nhưng anh Thế A cũng không có ý kiến thể hiện mong muốn được Tòa án hòa giải cho vợ chồng đoàn tụ. Tại phiên tòa, anh Thế A vắng mặt, chị Vđề nghị được ly hôn. Xét thấy, hôn nhân giưa chị Vvà anh Thế A đa lâm vao tinh trang trâm trong, đơi sông chung không thê keo dai, mục đích hôn nhân không đat đươc nên căn cư vao Điêu 56 Luât Hôn nhân va gia đinh giai quyêt cho chi Vinh đươc ly hôn với anh Thế A.

[3] Về con chung: Chị Lê Thị Vvà anh Nguyễn Thế A có 02 con chung là Nguyễn Khánh B, sinh ngày 01/01/2015 và cháu Nguyễn Hạ B, sinh ngày 15/01/2019. Hiện, cả hai cháu đang ở với chị V, do chị V chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh Thế A đang ở nước ngoài, không có điều kiện để trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Để đảm bảo quyền lợi cho con chung chưa thành niên nên cần giao cho chị Vtiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là phù hợp với quy định của pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Vchưa yêu câu nên Tòa án chưa xem xét. Anh Thế A có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Theo chị Lê Thị V , vợ chồng không có tài sản chung , không có nợ chung , không yêu cầu Tòa án giải quyết . Tuy nhiên, hiện nay anh Thế A chưa có ý kiến nên Tòa án chưa có cơ sở để xem xét. Dành quyền khởi kiện cho các đương sự có yêu cầu.

[5] Về án phí: Chị Lê Thị V phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân gia đình; Điều 147; khoản 2 Điêu 207; khoản 3 Điều 228; khoản 1, 2 Điều 479 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án. Xử:

- Về quan hệ tình cảm: Cho chị Lê Thị V và anh Nguyễn Thế A được ly hôn.

- Về con chung: Giao hai con chung là cháu Nguyễn Khánh B, sinh ngày 01/01/2015 và cháu Nguyễn Hạ B, sinh ngày 15/01/2019 cho chị Lê Thị V trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Khánh B và Hạ B đủ 18 tuổi, trưởng thành. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Lê Thị V chưa yêu cầu nên Tòa án chưa xem xét. Anh Nguyễn Thế A có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

- Về tài sản chung và nợ chung : Dành quyền khởi kiện cho các đương sự khi co yêu câu.

- Về án phí: Chị Lê Thị Vphải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An theo biên lai số 0000044 ngày 15/7/2020.

Chị Lê Thị Vcó quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Thế A cư trú ở nước ngoài vắng mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 93/2020/HNGĐ-ST

Số hiệu:93/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;