Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 91/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH B

BẢN ÁN 91/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 27/6/2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 80/2022/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2022 về “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2022/QĐXX-ST ngày 26/5/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 58/2022/QĐ-ST ngày 09/6/2022, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Anh Hoàng Văn Đ, sinh năm: 1971. (vắng mặt).

Đa chỉ: Khu 12, đường Nguyễn Hữu Cầu, phường Ngọc Châu, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.

* Bị đơn: Chị Nguyễn Thị M, sinh năm: 1983. (vắng mặt).

Nơi ĐKHKTT: Thôn Đ Thịnh, xã Tam Dị, huyện Lục Nam, tỉnh B. (Hiện đang lao động tại nước ngoài).

Đa chỉ cuối cùng của chị Nguyễn Thị M tại Việt Nam là thôn Đ Thịnh xã Tam Dị, huyện Lục Nam, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện về việc xin ly hôn, bản tự khai và các bản khai tiếp theo nguyên đơn là anh Hoàng Văn Đ trình bày:

Anh và chị Nguyễn Thị M kết hôn với nhau trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có được tự do tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Ngọc Châu, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương ngày 06/9/2016. Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống với nhau tại gia đình anh ở Hải Dương. Vợ chồng chung sống với nhau hòa thuận, hạnh phúc được một thời ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do vợ chồng không hợp nhau, đến khoảng tháng 5/2017 thì chị M đi lao động tại nước ngoài. Sau khi đi nước ngoài thì thời gian đầu vợ chồng có liên lạc với nhau được một thời gian, sau đó thì chị M không còn liên lạc gì với anh nữa. Vợ chồng đã sống ly thân từ đó đến nay. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, anh đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh B giải quyết cho anh được ly hôn với chị Nguyễn Thị M.

-Về con chung: Vợ chồng anh chưa có con chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

-Về tài sản chung, công nợ chung: Không có, không đề nghị giải quyết. Ngoài ra anh Đ còn trình bày: Hiện nay, chị M vẫn đang lao động ở nước ngoài, địa chỉ cụ thể của chị M ở nước ngoài anh không cung cấp được cho Tòa án được vì đã lâu anh không liên lạc được với chị M, chị M vẫn liên lạc về cho mẹ chị M là bà Nguyễn Thị Minh, trú tại: Thôn Đ Thịnh, xã Tam Dị, huyện Lục Nam, tỉnh B nhưng bà Minh cũng không cung cấp địa chỉ cho anh biết nên anh không biết để cung cấp cho Tòa án.

Do tính chất công việc nên anh không thể tham gia được các phiên họp kiểm tra tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, các phiên tòa xét xử vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình giữa anh và chị M được, nên anh đề nghị Tòa án cho anh được vắng mặt trong các phiên họp kiểm tra tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, các phiên tòa xét xử vụ án tranh chấp Hôn nhân gia đình giữa anh và chị M.

Bị đơn chị Nguyễn Thị M không có bản tự khai.

Ngày 11/5/2022 và ngày 20/5/2022 Tòa án nhân dân tỉnh B đã tiến hành làm việc với mẹ đẻ của chị M là bà Nguyễn Thị Minh, sinh năm 1959; trú tại: Thôn Đ Thịnh, xã Tam Dị, huyện Lục Nam, tỉnh B để giao thông báo thụ lý vụ án và yêu cầu bà Minh thông báo cho chị M biết về việc Tòa án nhân dân tỉnh B đang thụ lý vụ án tranh chấp Hôn nhân gia đình giữa anh Hoàng Văn Đ và chị Nguyễn Thị M; yêu cầu chị M viết bản tự khai, lời khai về cho Tòa án; yêu cầu bà Nguyễn Thị Minh cung cấp địa chỉ cụ thể của chị M ở nước ngoài. Tuy nhiên, qua hai lần làm việc bà Minh vẫn giữ nguyên quan điểm là chị M ở nước ngoài vẫn thường xuyên liên lạc về cho bà nhưng bà không cung cấp địa chỉ cụ thể của chị M ở nước ngoài cho Tòa án, vì đây là việc cá nhân của chị M, đồng thời bà Nguyễn Thị Minh cũng không thực hiện theo yêu cầu của Tòa án thông báo cho chị M biết để chị M gửi lời khai về, quan điểm của gia đình bà là chờ khi nào chị M về nước thì giải quyết ly hôn. Kể từ đó đến nay, Tòa án cũng không nhận được bất kỳ lời khai nào của chị M gửi về.

Tại phiên tòa nguyên đơn anh Hoàng Văn Đ vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt. Chị Nguyễn Thị M vắng mặt không có lý do.

Chủ tọa phiên tòa thay mặt Hội đồng xét xử thông qua đơn khởi kiện, bản tự khai của anh Đ; Biên bản làm việc với bà Nguyễn Thị Minh là mẹ đẻ của chị M và thông qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B phát biểu về việc tuân theo pháp luật về tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký Tòa án đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án.

Về việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn anh Hoàng Văn Đ có đơn xin xét xử vắng mặt thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn chị M không có địa chỉ cụ thể ở nước ngoài. Tòa án đã niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng đối với chị M; Căn cứ vào công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao xử vắng mặt chị Nguyễn Thị M là đúng.

-Về nội dung: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 51, Điều 53, Điều 56, khoản 2 Điều 123; Điều 127 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35;

điểm c khoản 1 Điều 37; khoản 4 Điều 147; Điều 271; Điều 273; Điều 150 BLTTDS; khoản 2 Điều 479 BLTTDS; khoản 5 điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTBVQH14 ngày 30/12/2016 Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Hoàng Văn Đ.

Về hôn nhân: Cho anh Hoàng Văn Đ được ly hôn chị Nguyễn Thị M.

Về án phí : Anh Hoàng Văn Đ phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được công bố tại phiên toà. Sau khi thảo luận và nghị án. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Anh Hoàng Văn Đ là nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự quyết định xét xử vắng mặt anh Hoàng Văn Đ.

Đi với bị đơn chị Nguyễn Thị M vắng mặt tại phiên tòa: Tòa án nhân dân tỉnh B đã tiến hành làm việc với bà Nguyễn Thị Minh là mẹ đẻ của chị Nguyễn Thị M để giao thông báo thụ lý vụ án, yêu cầu bà Minh thông báo cho chị M biết về việc Tòa án nhân dân tỉnh B đang thụ lý vụ án tranh chấp Hôn nhân gia đình giữa anh Hoàng Văn Đ và chị Nguyễn Thị M; Yêu cầu chị M viết bản tự khai, lời khai về cho Tòa án; Yêu cầu bà Nguyễn Thị Minh cung cấp địa chỉ cụ thể của chị M ở nước ngoài. Bà Nguyễn Thị Minh trình bày: Con bà là chị Nguyễn Thị M ở nước ngoài vẫn thường xuyên liên lạc về cho bà. Tuy nhiên, Tòa án đã yêu cầu đến lần thứ hai mà bà Minh vẫn không cung cấp địa chỉ, tin tức của chị M cho Tòa án, cũng như không thực hiện yêu cầu của Tòa án thông báo cho chị M biết. Nhận thấy, đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết. Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng cho bị đơn theo quy định của pháp luật. Vì vậy, căn cứ vào Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao; khoản 2 điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn chị Nguyễn Thị M theo thủ tục chung.

[2].Về thẩm quyền: Anh Hoàng Văn Đ là nguyên đơn có đơn xin ly chị Nguyễn Thị M, chị M hiện đang lao động tại nước ngoài nhưng không rõ địa chỉ (theo Công văn số 9943/QLXNC-P5 ngày 16/5/2022 của Cục Quản lý xuất nhập cảnh - Bộ công an), thì chị M đã xuất cảnh ngày 22/8/2017, hiện chưa có thông tin nhập cảnh về Việt Nam, địa chỉ cuối cùng của chị M ở Việt Nam là: Thôn Đ Thịnh, xã Tam Dị, huyện Lục Nam, tỉnh B. Như vậy, đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình có đương sự ở nước ngoài thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh B, theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3]. Về quan hệ Hôn nhân: Anh Hoàng Văn Đ và chị Nguyễn Thị M kết hôn ngày 06/9/2016 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND phường Ngọc Châu, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương. Đây là hôn nhân hợp pháp.

Theo anh Đ trình bày: Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống với nhau tại gia đình anh ở Hải Dương. Vợ chồng chung sống với nhau hòa thuận, hạnh phúc được một thời ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do vợ chồng không hợp nhau, đến khoảng tháng 5/2017 thì chị M đi lao động tại nước ngoài. Sau khi đi nước ngoài thì thời gian đầu vợ chồng có liên lạc với nhau, sau đó thì chị M không còn liên lạc gì với anh nữa. Vợ chồng đã sống ly thân từ đó đến nay. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, anh đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh B giải quyết cho anh được ly hôn với chị Nguyễn Thị M.

Xét yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của anh Hoàng Văn Đ. Hội đồng xét xử thấy: Sau khi kết hôn anh Đ và chị M chung sống với nhau hạnh phúc được một thời gian ngắn thì đã phát sinh mâu thuẫn. Đến năm 2017 thì chị M đã đi xuất khẩu lao động từ đó đến nay chưa về nước. Kể từ khi đi nước ngoài thì hai vợ chồng đã không còn liên lạc và quan tâm thì đến nhau nữa. Xét thấy tình cảm vợ chồng giữa anh Đ và chị M đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Đ. Xử cho anh Hoàng Văn Đ được ly hôn với chị Nguyễn Thị M

[4]. Về con chung: Anh Đ và chị M không có con chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung.

[5] .Về tài sản, công nợ: Anh Hoàng Văn Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6]. Về án phí: Anh Hoàng Văn Đ phải nộp 300.000đồng án phí ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ Luật Tố tụng dân sự và khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu , nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Nhưng được trừ vào số tiền 300.000đồng đã nộp tạm ứng án phí tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh B.

[7]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271; Điều 273 và khoản 2 Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 53; khoản 1 Điều 56 và khoản 2 Điều 123; Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 37; khoản 4 Điều 147; khoản 3 Điều 153; Điều 271; Điều 273; khoản 1, 2 Điều 479 Bộ Luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27; Điều 44 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án, xử:

1. Về hôn nhân: Cho anh Hoàng Văn Đ được ly hôn với chị Nguyễn Thị M.

2. Về án phí: Anh Hoàng Văn Đ phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0000416 ngày 06/5/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh B. Xác nhận anh Hoàng Văn Đ đã nộp đủ.

3.Về quyền kháng cáo bản án: Anh Hoàng Văn Đ vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ nhận được tống đạt Bản án hoặc Bản án được niêm yết theo quy định.

Chị Nguyễn Thị M hiện đang ở nước ngoài vắng mặt tại phiên tòa có thời hạn kháng cáo Bản án là 01 tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Án xử công khai sơ thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

289
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 91/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:91/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;