Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 75/2021/ST-HNGĐ

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CON CUÔNG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 75/2021/ST-HNGĐ NGÀY 28/07/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 28 tháng 7 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 21/2021/TLST - HNGĐ ngày 11/3/2021 về việc “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2021/QĐXX – ST ngày 01 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Vi Thị T - sinh năm 2002.

Địa chỉ: Bản Lục Sơn, xã Lục Dạ, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An.

2. Bị đơn: Anh Lương Văn G - sinh năm 1997.

Địa chỉ: Bản K, xã L, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An. Chị T có đơn xin xét xử vắng mặt, anh G vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện (đơn xin ly hôn) ngày 25/01/2021 của nguyên đơn, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị Vi Thị T trình bày: Chị và anh Lương Văn G kết hôn với nhau vào ngày 06/01/2021 tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn, gia đình anh G không đồng ý tổ chức đám cưới vì hoàn cảnh gia đình hai bên không tương xứng. Chính vì thế nên cả hai thường xuyên cãi cọ nhau, mâu thuẫn và bất hòa với nhau.Sau nhiều lần như vậy làm cả hai cảm thấy mệt mỏi và tình cảm của hai vợ chồng phai nhạt và xa nhau. Mâu thuẫn đã được hòa giải nhưng không có kết quả. Vợ chồng sống ly thân từ ngày 20/01/2021cho đến nay và không còn liên lạc với nhau, hiện nay tình cảm vợ chồng thực sự không còn chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Lương Văn G.

Về con chung: Quá trình chung sống chị T và anh G không có con chung. Về tài sản chung: Vợ chồng chị tự thỏa thuận tự chia không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Vợ chồng chị T và anh G không nợ tổ chức, cá nhân nào và cũng không ai nợ anh chị nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm anh G vắng mặt, mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt nên Tòa án không thể tiến hành các thủ tục tố tụng đúng quy định tại Điều 204; 207; 208 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Con Cuông phát biểu ý kiến theo quy định tại Điều 262 Bộ luật tố tụng dân sự như sau:

- Về tố tụng:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử: quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng; nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật, bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51,53,56 Luật Hôn nhân và gia đình: Chấp nhận đơn ly hôn của chị Vi Thị T. Chị T và anh G chấm dứt quan hệ hôn nhân kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật; Về tài sản chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét; về án phí: Buộc chị Vi Thị T phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình, bị đơn hiện cư trú tại bản K, xã L, huyện Con Cuông nên Tòa án nhân dân huyện Con Cuông thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Sau khi thụ lý vụ án, qua xác xác minh ngày 12/3/2021 tại Ban công an xã L, huyện Con Cuông cho thấy anh Lương Văn G có hộ khẩu thường trú tại bản K, xã L nhưng hiện nay anh không có mặt tại địa phương, đi đâu cũng không thông báo cho gia đình và chính quyền địa phương biết nên không biết địa chỉ hiện nay của anh G ở đâu. Như vậy. bị đơn đã thay đổi nơi cư trú nhưng không thông báo cho người khởi kiện biết về nơi cư trú mới theo quy định tại Điều 40;

điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự thì được coi là cố tình giấu địa chỉ nên Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tụng chung là phù hợp với hướng dẫn tại điểm a khoản 2 Điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Lương Văn G đã được Tòa án tống đạt, niêm yết hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập để trình bày ý kiến; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt anh Giang theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn anh Giang không nộp văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện nên Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ mà nguyên đơn đã giao nộp và Tòa án thu thập được để giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 96 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Xét thấy chị Vi Thị T và anh Lương Văn G vào ngày 06/01/2021 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An. Việc đăng ký kết hôn là tự nguyện, không có ai ép buộc, không vi phạm quy định về điều kiện và thủ tục kết hôn quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình. Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh G là hợp pháp.

Sau khi kết hôn, cả hai thường xuyên xẩy ra mâu thuẫn dẫn đến vợ chồng sống ly thân từ ngày 20/01/2021 cho đến nay và không còn liên lạc với nhau, như vậy chị T và anh G đã vi phạm tình nghĩa vợ chồng.

Tại phiên tòa anh G vắng mặt không có ý kiến trình bày nhưng qua xác minh tại địa phương cho thấy quá trình kết hôn giữa chị T và anh G xảy ra mâu thuẫn không thể giải quyết được. Xét thấy tình cảm vợ chồng giữa chị T và anh G không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần áp dụng Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình cần chấp nhận cho chị Vi Thị T được ly hôn anh Lương Văn G.

chung.

Về con chung: Vợ chồng chị Vi Thị T và anh Lương Văn G không có con Về tài sản chung: Do chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên căn cứ vào khoản 1 Điều 5 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Chị Vi Thị T phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điều 51; Điều 53; Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 207; 227;228; Điều 238 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Vi Thị T được ly hôn anh Lương Văn G.

Về án phí: Áp dụng khoản 4 điều 147 BLTTDS; điểm a, khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, chị Vi Thị T phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn được trừ vào tiền tạm ứng án phí chị T đã nộp 300.000 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An theo biên lai thu tiền số 0002365 ngày 11/3/2021.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 75/2021/ST-HNGĐ

Số hiệu:75/2021/ST-HNGĐ
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Con Cuông - Nghệ An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;