Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 71/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 71/2021/HNGĐ-ST NGÀY 31/12/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 31 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 74/2021/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 11 năm 2021 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 61/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 27 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị B T H, sinh năm 1971; Địa chỉ: tổ 42, HD, TB

- Bị đơn: Anh P V H, sinh năm 1974; Địa chỉ: Tổ 42, HD, TB

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị P T B N, sinh năm 1985; Địa chỉ: Tổ 13, HD, TB (Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn - chị B T H gửi văn bản trình bày ý kiến:

+ Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh P V H tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn ngày 09/10/1995 tại Ủy ban nhân dân HD, TB Sau khi kết hôn vợ chồng chị chung sống H phúc, đến năm 2016 chị sang Hàn Quốc để chăm cháu ngoại thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm nên cứ gọi điện thoại nói chuyện là vợ chồng cãi chửi nhau. Mâu thuẫn căng thẳng, kéo dài rồi dần dần vợ chồng không gọi điện, không quan tâm đến nhau nữa. Nay chị H xác định vợ chồng không còn tình cảm nên chị đề nghị Tòa án cho chị được ly hôn anh H.

+Về con chung: Vợ chồng chị có 02 con chung là Phạm Thị Thu, sinh ngày 12/8/1996 và Phạm Thị Vân Anh, sinh ngày 01/9/2008. Hiện nay con chung Phạm Thị Thu đã trưởng thành, còn con chung Phạm Thị Vân Anh đang do chị P T B N (là em của chị H) trực tiếp nuôi dưỡng, điều kiện sinh sống và học tập tốt, con Vân Anh có nguyện vọng được tiếp tục ở với chị Nhật khi bố mẹ ly hôn nên đề nghị Tòa án giao con chung Phạm Thị Vân Anh cho chị H nuôi dưỡng, chị H ủy quyền việc nuôi con chung cho chị P T B N nuôi dưỡng trong thời gian chị H ở nước ngoài. Chị H không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung.

+Về tài sản và nợ chung: Vợ chồng chị không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn – anh P V H trình bày:

+ Về quan hệ hôn nhân: Về điều kiện, hoản cảnh, thời gian kết hôn như chị H đã trình bày. Sau khi kết hôn vợ chồng anh chung sống H phúc, êm ấm. Đến năm 2016 chị H sang Hàn Quốc chăm cháu ngoại thì vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do chị H không quan tâm, hỏi han mà bỏ mặc anh H. Anh H đã nhiều lần gọi chị H về Việt Nam để vợ chồng đoàn tụ và chăm sóc nhau nhưng chị H không về yêu cầu anh H làm thủ tục ly hôn. Nay anh H xác định thời gian vợ chồng anh sống ly thân đã lâu, chị H không quan tâm gì nên anh không còn tình cảm và đồng ý ly hôn chị H.

+Về con chung: Vợ chồng anh có 02 con chung như chị H đã trình bày. Hiện nay con chung Phạm Thị Thu đã trưởng thành, còn con chung Phạm Thị Vân Anh đang do chị P T B N (là em của chị H) trực tiếp nuôi dưỡng, điều kiện sinh sống và học tập tốt, thỉnh thoảng anh H vẫn qua lại chăm nom con chung. Do hiện nay con chung Phạm Thị Vân Anh đang sinh sống và học tập ổn định và có nguyện vọng được tiếp tục ở cùng chị Nhật, chị H có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung để ủy quyền cho chị Nhật nuôi dưỡng nên anh H đồng ý.

+Về tài sản và nợ chung: Vợ chồng anh không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – chị P T B N trình bày: Hiện nay chị đang trực tiếp nuôi dưỡng cháu Phạm Thị Vân Anh là con chung của chị H và anh H. Cháu Vân Anh được học tập đầy đủ, điều kiện sống ổn định, phát triển tốt. Chị Nhật đồng ý nhận ủy quyền của chị H về việc nuôi cháu Phạm Thị Vân Anh trong thời gian chị H đi Hàn Quốc.

Đại diện VKSND tỉnh Thái Bình phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của thẩm phán, của Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đều tuân thủ theo quy định của pháp luật. Về nội dung có đủ căn cứ để chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Các đương sự đã được Tòa án tống đạt văn bản tố tụng hợp lệ nhưng đều có đơn xin xét xử vắng mặt. Vì vậy, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là đúng quy định pháp luật.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Qua lời khai của chị H và anh H thể hiện anh chị đã sống ly thân từ năm 2016, vợ chồng có nhiều bất đồng về quan điểm sống dẫn đến không quan tâm, hỏi han nhau. Khi xảy ra mâu thuẫn anh H đã cố gắn hàn gắn nhưng không thành, chị H không muốn đoàn tụ mà kiên quyết xin ly hôn. Như vậy mâu thuẫn của anh chị đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được cần xử cho chị H ly hôn anh H là đúng quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

[2.2] Về con chung: Chị H và anh H có 02 con chung là Phạm Thị Thu, sinh ngày 12/8/1996 và Phạm Thị Vân Anh, sinh ngày 01/9/2008. Do con chung Phạm Thị Thu đã trưởng thành nên Tòa án không đặt ra giải quyết. Con chung Phạm Thị Vân Anh hiện đang do chị P T B N nuôi dưỡng, điều kiện sinh sống và học tập tốt. Chị H và anh H đều có nguyện vọng giao con chung Phạm Thị Vân Anh cho chị H nuôi dưỡng để chị H ủy quyền cho chị P T B N nuôi dưỡng, phù hợp với nguyện vọng và đảm bảo điều kiện tốt nhất của con chung. Vì vậy cần giao con chung Phạm Thị Vân Anh cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng.

Do chị H không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung nên Tòa án không đặt ra giải quyết.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Chị H và anh H xác định vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không đặt ra giải quyết.

[2.4] Về án phí: Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 228, Điều 477, khoản 2 Điều 479 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 - Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị B T H được ly hôn anh P V H.

2. Về nuôi con chung: Xử giao cho chị B T H trực tiếp nuôi dưỡng con chung Phạm Thị Vân Anh, sinh ngày 01/9/2008. Con chung Phạm Thị Thu, sinh ngày 12/8/1996 đã trưởng thành nên không đặt ra giải quyết. Việc cấp dưỡng nuôi con chưa đặt ra giải quyết.

Anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí:

Chị B T H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Chuyển 300.000 đồng chị H nộp tại biên lai số 0005182 ngày 10/11/2021 tại Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Thái Bình sang để thi hành án phí ly hôn sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, vắng mặt các đương sự. Chị B T H có quyền kháng cáo trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ; Anh P V H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ; 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 71/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:71/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;