Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 70/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 70/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 28/5/2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 53/2022/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2022 về “tranh chấp Hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2022/QĐXX-ST ngày 25/4/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 45/2022/QĐST-HNGĐ ngày 11/5/2022, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Lương Thị D, sinh năm: 1988. (vắng mặt).

Nơi ĐKHKTT: Thôn Hố Vầu, xã Tân H, huyện Lạng Giang, Bắc Giang.

*Bị đơn: Anh Nguyễn Văn L, sinh năm: 1984. (vắng mặt).

Nơi ĐKHKTT: Thôn Hố Vầu, xã Tân H, huyện Lạng Giang, Bắc Giang. Hiện đang lao động tại nước ngoài

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện về việc xin ly hôn và bản tự khai ngày 21/3/2022 và các bản khai tiếp theo, nguyên đơn là chị Lương Thị D trình bày:

Chị và anh Nguyễn Văn L đến với nhau trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, được tự do tìm hiểu có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân H, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang ngày 09/3/2011. Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống với nhau tại thôn Hố Vầu, xã Tân H, huyện Lạng Giang. Quá trình chung sống vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2015 thì anh L đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan và cũng từ đấy vợ chồng không quan tâm, liên lạc gì với nhau Na và cũng chấm dứt tình cảm từ đó. Đến năm 2018 thì chị về nhà mẹ đẻ ở từ đó đến nay và hai vợ chồng đều thống nhất ly hôn. Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được chị đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn L.

-Về con chung: Vợ chồng không có con chung, nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

-Về tài sản chung, công nợ chung: Không đề nghị Tòa án giải quyết.

Ngoài ra, chị D còn trình bày: Hiện nay anh L vẫn đang lao động ở nước ngoài, địa chỉ cụ thể của anh L ở nước ngoài chị không cung cấp được cho Tòa án được vì đã lâu chị không liên lạc được với anh L, anh L vẫn liên lạc về cho mẹ đẻ anh L là bà Phan Thị N, sinh năm 1959; trú tại: Thôn Hố Vầu, xã Tân H, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang nhưng bà N cũng không cung cấp địa chỉ cho chị biết nên chị không biết để cung cấp cho Tòa án.

Do tính chất công việc nên chị không thể tham gia được các phiên họp, kiểm tra , tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, các phiên tòa xét xử vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình giữa chị và anh L được, nên chị đề nghị Tòa án cho chị được vắng mặt trong các phiên họp kiểm tra tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, các phiên tòa xét xử vụ án tranh chấp Hôn nhân gia đình giữa chị và anh L.

Bị đơn anh Nguyễn Văn L không có bản tự khai.

Ngày 11/4/2022 và ngày 22/4/2022 Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đã tiến hành làm việc với mẹ đẻ của anh L là bà Phan Thị N, sinh năm 1959; trú tại: Thôn Hố Vầu, xã Tân H, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang để giao thông báo thụ lý vụ án và yêu cầu bà N thông báo cho anh L biết về việc Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đang thụ lý vụ án tranh chấp Hôn nhân gia đình giữa chị Lương Thị D và anh Nguyễn Văn L; yêu cầu anh L viết bản tự khai, lời khai về cho Tòa án; yêu cầu bà N cung cấp địa chỉ cụ thể của anh L ở nước ngoài. Tuy nhiên, qua 2 lần làm việc bà N vẫn giữ nguyên quan điểm là anh L ở nước ngoài vẫn thường xuyên liên lạc về cho gia đình nhưng bà không cung cấp địa chỉ cụ thể của anh L ở nước ngoài cho Tòa án, vì đây là việc cá nhân của anh L, đồng thời bà cũng không thực hiện theo yêu cầu của Tòa án thông báo cho anh Lbiết để anh L gửi lời khai về. Kể từ đó đến nay, Tòa án cũng không nhận được bất kỳ lời khai nào của anh L gửi về.

Tại phiên tòa nguyên đơn chị Lương Thị D vắng mặt tại phiên tòa, có đơn xin xét xử vắng mặt. Anh Nguyễn Văn L vắng mặt không có lý do.

Thay mặt Hội đồng xét xử thông qua đơn khởi kiện, bản tự khai của chị Thảo; Biên bản làm việc với mẹ đẻ của anh L là bà Phan Thị N và thông qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang phát biểu về việc tuân theo pháp luật về tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký Tòa án đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án.

Về việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn chị Lương Thị D có đơn xin xét xử vắng mặt thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn anh L không có địa chỉ cụ thể ở nước ngoài Tòa án đã niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng đối với anh L; Căn cứ vào Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao xử vắng mặt anh Nguyễn Văn L là đúng.

-Về nội dung: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 51, 53, 56 và khoản 2 điều 123; Điều 127 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 37; khoản 4 Điều 147; Điều 271; Điều 273; Điều 150 BLTTDS; khoản 2 Điều 479 BLTTDS; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTBVQH14 ngày 30/12/2016 Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lương Thị D.

Về hôn nhân: Cho chị Lương Thị D được ly hôn anh Nguyễn Văn L.

Về án phí: Chị Lương Thị D phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được công bố tại phiên toà. Sau khi thảo luận và nghị án. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Chị Lương Thị D là nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự quyết định xét xử vắng mặt chị Lương Thị D.

Đối với bị đơn anh Nguyễn Văn L vắng mặt tại phiên tòa: Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đã tiến hành làm việc với mẹ đẻ của anh Nguyễn Văn L là bà Phan Thị N để giao thông báo thụ lý vụ án, yêu cầu bà N thông báo cho anh L biết về việc Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đang thụ lý vụ án tranh chấp Hôn nhân gia đình giữa chị Lương Thị D và anh Nguyễn Văn L; Yêu cầu anh L viết bản tự khai, lời khai về cho Tòa án; Yêu cầu bà N cung cấp địa chỉ cụ thể của anh L ở nước ngoài. Bà Phan Thị N trình bày: Anh L ở nước ngoài vẫn thường xuyên liên lạc về cho bà. Tuy nhiên, Tòa án đã yêu cầu đến lần thứ hai mà bà N vẫn không cung cấp địa chỉ, tin tức của anh L cho Tòa án, cũng như không chịu thực hiện yêu cầu của Tòa án thông báo cho anh L biết. Nhận thấy, đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết. Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng cho bị đơn theo quy định của pháp luật. Vì vậy, căn cứ vào Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao; khoản 2 điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn anh Nguyễn Văn L theo thủ tục chung.

[2]. Về thẩm quyền: Chị Lương Thị D là nguyên đơn có đơn xin ly anh Nguyễn Văn L, anh L hiện đang lao động tại nước ngoài nhưng không rõ địa chỉ (theo Công văn số 7135/QLXNC-P5 ngày 12/4/2022 của Cục Quản lý xuất nhập cảnh - Bộ công an), thì anh L đã xuất nhập cảnh 05 lần, lần gần nhất là ngày 01/02/2020 hiện chưa có thông tin nhập cảnh trở lại, địa chỉ cuối cùng của anh L ở Việt Nam là: Thôn Hố Vầu, xã Tân H, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Như vậy, đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình có đương sự ở nước ngoài thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang, theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3]. Về quan hệ Hôn nhân: Chị Lương Thị D và anh Nguyễn Văn L kết hôn ngày 09/3/2011 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Tân H, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Đây là hôn nhân hợp pháp.

Theo chị D trình bày: Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống với nhau tại thôn Hố Vầu, xã Tân H, huyện Lạng Giang. Quá trình chung sống vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2015 thì anh L đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan và cũng từ đấy vợ chồng cũng không quan tâm, liên lạc gì với nhau Na và cũng chấm dứt tình cảm từ đó. Đến năm 2018 thì chị về nhà mẹ đẻ ở từ đó đến nay và hai vợ chồng đều thống nhất ly hôn. Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được chị đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn L.

Xét yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Lương Thị D. Hội đồng xét xử thấy: Sau khi kết hôn chị D và anh L chung sống với nhau hạnh phúc được một thời gian thì đến năm 2015 thì anh L đã đi sang nước ngoài lao động, kể từ khi anh L đi nước ngoài thì vợ chồng không còn liên lạc và quan tâm đến nhau Na và chị D đã về nhà mẹ đẻ sống. Xét thấy tình cảm vợ chồng giữa chị D và anh L đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị D. Xử cho chị Lương Thị D được ly hôn với anh Nguyễn Văn L.

[4]. Về con chung: Không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[5] .Về tài sản, công nợ: Không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6]. Về án phí: Chị Lương Thị D phải nộp 300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ Luật Tố tụng dân sự; và khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu , nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Giang.

[7]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271; Điều 273 và khoản 2 Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 53; khoản 1 Điều 56; và khoản 2 Điều 123; Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 37; khoản 4 Điều 147; khoản 3 Điều 153; Điều 273; Khoản 2 Điều 479 Bộ Luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27; Điều 44 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án;

xử:

1.Về hôn nhân: Cho chị Lương Thị D được ly hôn với anh Nguyễn Văn L.

2.Về án phí: Chị Lương Thị D phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0000361 ngày 01/4/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Giang. Xác nhận chị Lương Thị D đã nộp đủ.

3.Về quyền kháng cáo bản án: Chị Lương Thị D vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ nhận được tống đạt Bản án hoặc Bản án được niêm yết theo quy định.

Anh Nguyễn Văn L hiện đang ở nước ngoài vắng mặt tại phiên tòa có thời hạn kháng cáo Bản án là 01 tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Án xử công khai sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 70/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:70/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;