TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NAM, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 62/2021/HNGĐ-ST NGÀY 25/08/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 25 tháng 8 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 134/2021/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 4 năm 2021 về việc “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2021/QĐXX-ST ngày 04 tháng 8 năm 2021, giữa:
Nguyên đơn: Chị Giáp Thị X, sinh năm 1992 (Có mặt)
Bị đơn: Anh Nguyễn Hồng Q, sinh năm 1988 (Có mặt)
Đều trú tại: Thôn T, xã T, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản ghi lời khai và tại phiên tòa, nguyên đơn là chị Giáp Thị X trình bày:
Chị kết hôn với chị với anh Nguyễn Hồng Q vào năm 2011 trên tinh thần tự nguyện, vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân (UBND) xã T, huyện Lục Nam. Cưới xong vợ chồng ra ở riêng tại thôn T, xã T, cuộc sống hòa thuận hạnh phúc từ khi cưới đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm nên hay cãi vã. Chị và anh Q đã sống ly thân, cắt đứt mọi quan hệ tình cảm từ năm 2019 đến nay. Vì mâu thuẫn đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Q.
Về về con chung: Vợ chồng có hai con chung là Nguyễn Ngọc D, sinh ngày 19/10/2011 và Nguyễn Đăng K, sinh ngày 02/7/2015. Nay ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi cả hai con.
Về điều kiện chăm sóc con: Hiện nay chị làm công nhân tại khu công nghiệp Vân Chung (Năm nay là năm thứ 4), thu nhập một tháng trung bình từ 12 triệu đồng đến 13 triệu đồng. Với mức thu nhập như vậy thì đã bảo cho cuộc sống sinh hoạt của chị và hai con.
Về thời gian làm việc: Chị làm việc cả tháng không trừ thứ 7 và chủ nhật, nhưng được nghỉ luân phiên một tháng 4 ngày. Một tháng làm ca ngày, một tháng làm ca đêm. Trường hợp được giao nuôi cả hai con thì chị sẽ bố trí đi về trong ngày để chăm sóc con.
Về nơi ở: Hiện nay chị chưa có nhà riêng mà vẫn ở cùng bố mẹ đẻ. Trường hợp Tòa án giao nuôi cả hai con thì chị và các con sẽ về ở cùng bố mẹ đẻ của chị. Bố mẹ chị năm nay đều 55 tuổi và vẫn khỏe mạnh, có thể giúp chị chăm sóc các con mỗi lúc chị đi làm vắng nhà được.
Về việc yêu cầu cấp dưỡng: Trường hợp chị được nuôi cả hai con thì chị yêu cầu anh Q phải cấp dưỡng nuôi con cho chị, mức cấp dưỡng chị đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật. Trường hợp Tòa xử cho chị được nuôi một con thì chị không yêu cầu anh Q phải cấp dưỡng.
Về tài sản, công nợ: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn anh Nguyễn Hồng Q trình bày:
Chị X trình bày về thời điểm kết hôn và việc vợ chồng có đăng ký kết hôn là đúng. Anh và chị X sống hòa thuận hạnh phúc từ khi cưới đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do chị X đi làm công ty và vợ chồng nảy sinh bất đồng, thường xuyên cãi vã, đôi khi xảy ra xô sát (không nhiều). Vợ chồng sống ly thân và không còn quan hệ tình cảm gì với nhau từ tháng 9/2018 đến nay. Nay chị X xin ly hôn thì anh cũng nhất trí vì anh thấy tình cảm vợ chồng không còn.
Về về con chung: Vợ chồng có hai con chung là Nguyễn Ngọc D, sinh ngày 19/10/2011 và Nguyễn Đăng K, sinh ngày 02/7/2015. Các con hiện vẫn do anh chăm sóc, nuôi dưỡng và đều khỏe mạnh, phát triển bình thường. Nay ly hôn, anh có nguyện vọng được nuôi cả hai con.
Về điều kiện chăm sóc con: Hiện nay anh đang đi làm công nhân (xử lý nước thải) của Công ty pin năng lượng mặt trời Bo Việt ở Song Khê – Nội Hoàng. Anh đã làm liên tục tại công ty này được hơn 2 năm, thu nhập một tháng trung bình từ 09 triệu đồng đến 13 triệu đồng. Ngoài ra còn thu nhập từ trồng bưởi tại nhà (khoảng gần 10 triệu đồng/năm). Với mức thu nhập như vậy thì đã bảo cho cuộc sống sinh hoạt của anh và hai con ăn học.
Về thời gian làm việc: Anh làm việc ở công ty từ thứ 2 – thứ 7 (Sáng đi tối về), hai tuần làm ngày sau đó đổi sang hai tuần làm đêm, chủ nhật được nghỉ. Trong thời gian đi làm như vậy thì các con nhờ ông bà nội (ở sát cạnh nhà) trong nom, đưa đón, phục vụ ăn uống. Bố anh năm 57 tuổi, mẹ anh 54 tuổi. Ông bà còn khỏe mạnh, ngoài việc chăm sóc các cháu thì ông bà vẫn còn làm nông nghiệp. Thời gian làm việc như vậy thì tôi vẫn có thể chăm sóc được các con.
Về nơi ở: Hiện nay anh có nhà riêng, nhà cửa chắc chắn và sạch sẽ, đảm bảo nơi ở cho các con.
Về việc yêu cầu cấp dưỡng: Trường hợp anh được nuôi cả hai con thì anh yêu cầu chị X phải cấp dưỡng nuôi con cho anh, mức cấp dưỡng anh đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật. Trường hợp Tòa xử cho anh nuôi một con thì anh không yêu cầu chị X phải cấp dưỡng.
Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, phát biểu ý kiến:
Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi mở phiên tòa Thẩm phán và Thư ký tòa án tuân theo đúng trình tự tố tụng. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử sơ thẩm thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về phía các đương sự, nguyên đơn và bị đơn đã chấp hành đúng về quyền và nghĩa vụ quy định tại các điều 70, 71 và 72 Bộ luật tố tụng dân sự.
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 9, Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147, Điều 271, Điều 272 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về xử lý án phí, lệ phí:
Về quan hệ vợ chồng: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Giáp Thị X, cho chị Giáp Thị X được ly hôn anh Nguyễn Hồng Q.
Về con chung: Giao chị Giáp Thị X trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung là Nguyễn Ngọc D, sinh ngày 19/10/2011. Giao anh Nguyễn Hồng Q trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung là Nguyễn Đăng K, sinh ngày 02/7/2015.
Chị X và anh Q có quyền và nghĩa vụ chăm sóc con chung, không ai được cản trở.
Về cấp dưỡng nuôi con: Chị X và anh Q không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.
Về tài sản, công nợ chung: Do đương sự không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết:
- Về án phí: Chị Giáp Thị X là nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng:
Chị Giáp Thị X là người có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Hồng Q. Bị đơn là người có địa chỉ cư trú tại xã T, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì thấy:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Giáp Thị X và anh Nguyễn Hồng Q kết hôn với nhau năm 2011, có thực hiện đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, do vậy đây là hôn nhân hợp pháp.
[2.2] Về mâu thuẫn vợ chồng:
Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và tranh tụng tại phiên tòa, xác định: Chị Giáp Thị X và anh Nguyễn Hồng Q chung sống với nhau từ khi cưới đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm, tính cách trái ngược nhau. Mâu thuẫn căng thẳng vào giữa năm 2018 khiến vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay.
Qua đó, chứng tỏ mâu thuẫn giữa chị Giáp Thị X và anh Nguyễn Hồng Q là có thật. Thời gian vợ chồng sống ly thân đã lâu (03 năm), cho thấy mâu thuẫn đã rất trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn là anh Nguyễn Hồng Q cũng nhất trí ly hôn vì thấy không còn tình cảm với chị X. Do vậy xét thấy cần chấp nhận yêu cầu của chị Giáp Thị X, cho chị X được ly hôn với anh Nguyễn Hồng Q là phù hợp với Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.
[2.3] Về con chung: Chị Giáp Thị X và anh Nguyễn Hồng Q có hai con chung là Nguyễn Ngọc D, sinh ngày 19/10/2011 và Nguyễn Đăng K, sinh ngày 02/7/2015. Nay chị X và anh Q đều có nguyện vọng được nuôi cả hai con. Hội đồng xét xử xét thấy, yêu cầu chị X là chính đáng, nhưng anh Q cũng có nguyện vọng được nuôi con. Do các con là con chung nên cả chị X và anh Q đều có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc nuôi con theo quy định tại các Điều 69, 71, 72, 81 Luật hôn nhân và gia đình.
Quá trình xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ cho thấy điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con của chị X và anh Q là như nhau, không có căn cứ để giao cho chị X được nuôi cả 2 con hoặc giao cho anh Q được nuôi cả 2 con.
Vì vợ chồng không tự thỏa thuận được về vấn đề con chung nên cần giao mỗi người nuôi một con, xét thấy là phù hợp quy định của pháp luật. Cụ thể giao anh Nguyễn Hồng Q là người nuôi con Nguyễn Đăng K, sinh ngày 02/7/2015; giao chị X là người nuôi con Nguyễn Ngọc D, sinh ngày 19/10/2011 (vì cháu D có nguyện vọng được ở với mẹ).
Chị X và anh Q có quyền và nghĩa vụ chăm sóc con sau khi ly hôn theo quy định của pháp luật.
[2.4] Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con: Do giao mỗi người nuôi một con nên chị X và anh Q không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.
[3] Về tài sản, công nợ chung, ruộng canh tác: Do đương sự không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết.
[4] Về án phí: Chị Giáp Thị X là nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[5] Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các điều 9, 51, 56, 69, 71, 72, 81, 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 28; Điều 35; Điều 39; Điều 147; Điều 271; Điều 273; Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Giáp Thị X được ly hôn anh Nguyễn Hồng Q.
2. Về con chung:
Giao chị Giáp Thị X là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung Nguyễn Ngọc D, sinh ngày 19/10/2011.
Giao anh Nguyễn Hồng Q là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung Nguyễn Đăng K, sinh ngày 02/7/2015.
Chị Giáp Thị X và anh Nguyễn Hồng Q có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung sau khi ly hôn, không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
3. Về án phí: chị Giáp Thị X phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng chị X đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2017/0005341 ngày 22 tháng 4 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Xác nhận chị Giáp Thị X đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo:
Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Án xử công khai sơ thẩm./
Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 62/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 62/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lục Nam - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 25/08/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về