Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 55/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN SƠN, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 55/2022/HNGĐ-ST NGÀY 01/04/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 01/4/2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Yên Sơn mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 307/2021/TLST-HNGĐ, ngày 12 tháng 11 năm 2021, về việc: Tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2022/QĐXXST-HNGĐ, ngày 02/3/2022 và quyết định hoãn phiên tòa số 11/2022/QĐST-HNGĐ ngày 17/3/2022, giữa:

- Nguyên đơn: Anh Đào Ngọc S, sinh năm 1980

- Bị đơn: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1980 Cùng địa chỉ: Thôn X, xã T, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.

(Anh S có mặt, chị H vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Đào Ngọc S trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Phạm Thị H tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn, khi kết hôn có tổ chức cưới hỏi và đăng ký kết hôn ngày 26/3/2007 tại Ủy ban nhân dân xã Trung Môn, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Sau khi kết hôn vợ chồng anh sống chung cùng gia đình nhà anh tại Thôn X, xã T, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, hòa thuận bình thường, đến năm 2017 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân dẫn tới mâu thuẫn là do tính tình hai bên không hợp nhau, luôn bất đồng quan điểm, lối sống. Anh và chị H sống ly thân từ năm 2017 đến nay. Nay anh xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không còn tình cảm với nhau nữa, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh đề nghị Tòa án nhân dân huyện Yên Sơn giải quyết cho anh được ly hôn với chị Phạm Thị H.

Về con chung: Anh và chị H có 03 con chung là cháu Đào Thị Minh N, sinh ngày 06/11/2007, cháu Đào Thị Anh T, sinh ngày 02/6/2009 và cháu Đào Ngọc Đăng K, sinh ngày 11/10/2017, hiện nay các cháu đang ở với chị H cùng với mẹ anh. Theo nguyện vọng của cháu N và cháu T xin ở với chị H, còn cháu K còn nhỏ cần sự chăm sóc của người mẹ nên sau khi ly hôn anh yêu cầu chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cả 03 cháu Đào Thị Minh N, cháu Đào Thị Anh T và cháu Đào Ngọc Đăng K. Anh sẽ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi dưỡng cháu K mỗi tháng 2.000.000 đồng, phương thức cấp dưỡng theo hàng tháng, thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 5 năm 2022 cho đến khi cháu K đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu tòa án giải quyết; về nợ chung: Anh xác định anh và chị H không vay nợ ai cũng không cho ai vay nợ nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã tiến hành tống đạt hợp lệ giấy triệu tập nhưng chị H không đến Tòa án tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật, Tòa án đã tiến hành đi xác minh, thu thập chứng cứ tại địa phương được biết, hiện chị H đang làm ăn, sinh sống tại Thôn X, xã T, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, nhưng chị H từ chối nhận các tài liệu của Tòa án, có lần chị H trực tiếp nhận nhưng từ chối không lên Tòa án để tham gia tố tụng nên Tòa án đã tiến hành lập biên bản và niêm yết thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và các tài liệu khác tại địa phương nơi chị H cư trú, để chị H đến Tòa án giải quyết vụ án, nhưng chị H đều vắng mặt và cũng không nộp cho Tòa án văn bản ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, anh S có đơn yêu cầu không tiến hành hòa giải. Do vậy, Tòa án không tiến hành phiên hòa giải và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.

Kết quả xác minh, thu thập chứng cứ thể hiện: Anh Đào Ngọc S và chị Phạm Thị H là vợ chồng hợp pháp, có đăng ký kết hôn vào ngày 26/3/2007 tại Ủy ban nhân dân xã Trung Môn, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang và được hai bên gia đình tổ chức đám cưới theo phong tục địa phương. Sau khi kết hôn vợ chồng anh S, chị H về chung sống với gia đình anh S. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, hoà thuận bình thường, đến năm 2017 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do luôn bất đồng quan điểm sống, lối sống nên tình cảm vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, tình cảm vợ chồng ngày càng lạnh nhạt, không còn quan tấm đến nhau nữa, anh S và chị H sống ly thân từ cuối năm 2017 đến nay, hiện vợ chồng anh S, chị H không còn tồn tại một gia đình, hạnh phúc, tiến bộ, mục đích hôn nhân không đạt được. Về con chung, Anh S và chị H có 03 con chung là cháu Đào Thị Minh N, sinh ngày 06/11/2007, cháu Đào Thị Anh T, sinh ngày 02/6/2009 và cháu Đào Ngọc Đăng K, sinh ngày 11/10/2017, hiện nay các cháu đang ở với chị H cùng với mẹ anh S. Về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng anh S và chị H địa phương không nắm được. Về hộ khẩu thường trú, anh S và chị H đều có hộ khẩu thường trú tại Thôn X, xã T, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Hiện nay chị H đi làm Công ty gần nhà nhưng sáng đi sớm tối về muộn nên thôn không thể giao trực tiếp các tài liệu của Tòa án cho chị H được. Về thu nhập bình quân của anh S, chị H địa phương không nắm được.

Tại phiên tòa, nguyên đơn anh Đào Ngọc S vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và ý kiến như đã trình bày, về quan hệ hôn nhân, anh đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho anh được ly hôn với chị Phạm Thị H. Về con chung, anh xác định anh và chị H có 03 con chung là cháu Đào Thị Minh N, sinh ngày 06/11/2007, cháu Đào Thị Anh T, sinh ngày 02/6/2009 và cháu Đào Ngọc Đăng K, sinh ngày 11/10/2017, hiện nay các cháu đang ở với chị H cùng với mẹ anh. Theo nguyện vọng của cháu N và cháu T xin ở với chị H, còn cháu K còn nhỏ cần sự chăm sóc của người mẹ nên sau khi ly hôn anh yêu cầu chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cả 03 cháu. Anh sẽ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi dưỡng cháu K mỗi tháng 2.000.000 đồng, phương thương cấp dưỡng theo hàng tháng, thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 5 năm 2022 cho đến khi cháu K đủ 18 tuổi. Về tài sản chung, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết, về nợ chung, anh xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án đều đảm bảo đúng quy định. Về việc giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng các Điều 28, 147, 227, 228, 235, 238, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56, 81, 82, 83, 107, 110, 116, 117 của Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Đề nghị Hội đồng xét xử, xử cho anh Đào Ngọc S được ly hôn với chị Phạm Thị H. Về con chung, giao cháu Đào Thị Minh N, sinh ngày 06/11/2007, cháu Đào Thị Anh T, sinh ngày 02/6/2009 và cháu Đào Ngọc Đăng K, sinh ngày 11/10/2017 cho chị Phạm Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Đào Ngọc S có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Đào Ngọc Đăng K mỗi tháng 2.000.000 đồng, phương thức cấp dưỡng theo hàng tháng, thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 5 năm 2022 cho đến khi cháu K đủ 18 tuổi. Về tài sản chung, anh S không yêu cầu Tòa án giải quyết, về nợ chung, anh S xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí, anh Đào Ngọc S phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả làm việc tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Tranh chấp giữa nguyên đơn anh Đào Ngọc S và chị Phạm Thị H là tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn là chị Phạm Thị H có hộ khẩu thường trú tại Thôn X, xã T, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang nên anh S khởi kiện xin ly hôn với chị H là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Yên Sơn theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Quá trình xác minh, thu thập chứng cứ với chính quyền địa phương được biết, chị H có hộ khẩu thường trú và hiện đang sinh sống tại Thôn X, xã T, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Địa phương cho biết, chị H có biết việc anh S khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn nhưng chị H không đến Tòa án để giải quyết. Tòa án đã gửi giấy triệu tập và tiến hành niêm yết thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải tại địa phương nơi chị H cư trú để chị H đến Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, chị H không đến Toà án giải quyết vụ việc, tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải chị H vẫn vắng mặt không có lý do và cũng không nộp các văn bản ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện, và các chứng cứ kèm theo. Căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt chị Phạm Thị H.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Đào Ngọc S và chị Phạm Thị H đăng ký kết hôn vào ngày 26/3/2007 tại Ủy ban nhân dân xã Trung Môn, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang và được hai bên gia đình tổ chức đám cưới theo phong tục địa phương, như vậy đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng anh S, chị H sống với gia đình anh S. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, hoà thuận bình thường, đến năm 2017 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do luôn bất đồng quan điểm sống, lối sống, vợ chồng không còn quan tâm đến nhau nữa, anh S và chị H sống ly thân từ năm 2017 đến nay nên không còn tồn tại một gia đình hạnh phúc, tiến bộ, mục đích hôn nhân không đạt được. Như vậy, xét quan hệ hôn nhân của anh S và chị H thấy rằng mâu thuẫn đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, yêu cầu xin ly hôn của anh S là có căn cứ, vì vậy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh S. Xử cho anh Đào Ngọc S được ly hôn với chị Phạm Thị H là phù hợp quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Anh Đào Ngọc S và chị Phạm Thị H có 03 con chung là cháu Đào Thị Minh N, sinh ngày 06/11/2007, cháu Đào Thị Anh T, sinh ngày 02/6/2009 và cháu Đào Ngọc Đăng K, sinh ngày 11/10/2017, hiện nay cả cháu đang ở với chị H cùng với mẹ anh S tại Thôn X, xã T, huyện Yên Sơn. Theo nguyện vọng của cháu N và cháu T xin được ở với chị H, còn cháu K còn nhỏ cần sự chăm sóc của người mẹ. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành lấy lời khai của bà Nguyễn Thị T1 (là mẹ đẻ của anh S), bà T1 nhất trí để cho chị H ở nhà bà để nuôi con và bà sẽ hỗ trợ và tạo mọi điều kiện để chị H nuôi con. nên sau khi ly hôn anh yêu cầu chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cả 03 cháu. Anh sẽ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi dưỡng cháu K mỗi tháng 2.000.000 đồng, phương thức cấp dưỡng theo hàng tháng, thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 5 năm 2022 cho đến khi cháu K đủ 18 tuổi.

Xét về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con chung sau khi ly hôn và xét điều kiện, hoàn cảnh để nuôi con chung thì anh S và chị H có quyền và điều kiện như nhau. Căn cứ theo nguyện vọng của cháu N và cháu T xin được ở với chị H, còn cháu K còn nhỏ cần sự chăm sóc của người mẹ. Về phía gia đình nhà anh S cũng đồng ý tạo điều kiện về mọi mặt để chị H nuôi con, hiện chị H cũng có công ăn việc làm ổn định, đảm bảo điều kiện để nuôi con chung nên Hội đồng xét xử cần giao 03 con chung là cháu Đào Thị Minh N, sinh ngày 06/11/2007, cháu Đào Thị Anh T, sinh ngày 02/6/2009 và cháu Đào Ngọc Đăng K, sinh ngày 11/10/2017 cho chị Phạm Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa anh S tự nguyện cấp dưỡng nuôi cháu Đào Ngọc Đăng K mỗi tháng 2.000.000 đồng là phù hợp, anh S có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung: Anh Đào Ngọc S không yêu cầu Tòa án giải quyết; về nợ chung: Anh S xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Đào Ngọc S phải nộp án phí theo theo quy định tại điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị đơn không phải chịu án phí.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 147, 227, 228, 235, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 468 của Bộ luật dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 107, 110, 116, 117 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Đào Ngọc S.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Đào Ngọc S được ly hôn với chị Phạm Thị H.

2. Về con chung: Giao 03 con chung là cháu Đào Thị Minh N, sinh ngày 06/11/2007, cháu Đào Thị Anh T, sinh ngày 02/6/2009 và cháu Đào Ngọc Đăng K, sinh ngày 11/10/2017 cho chị Phạm Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Đào Ngọc S có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Đào Ngọc Đăng K mỗi tháng 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng)/tháng, phương thức cấp dưỡng được thực hiện định kỳ theo hàng tháng, thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 5/2022 cho đến khi cháu K đủ 18 tuổi và anh S có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

Khoản tiền cấp dưỡng nuôi con chung kể từ khi Bản án có hiệu lực pháp luật và chị Phạm Thị H có đơn yêu cầu thi hành án, nếu anh Đào Ngọc S chậm cấp dưỡng thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản tiền lãi theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

3. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Anh Đào Ngọc S phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm và án phí của người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Tổng cộng là 600.000đ (Sáu trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0003874, ngày 12 tháng 11 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, anh S còn phải nộp 300.000 đồng(Ba trăm nghìn đồng). Chị Phạm Thị H không phải chịu án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Anh Đào Ngọc S có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (01/4/2022), chị Phạm Thị H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 55/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:55/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Sơn - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;