TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 51/2021/HNGĐ-ST NGÀY 16/08/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 16/8/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 139/2021/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 4 năm 2021 về việc tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 107/2021/QĐXXST-DS ngày 12/7/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số: 25/2021/QĐST-DS ngày 29/7/2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Vi Thị H, sinh năm 1998 (vắng mặt, có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt);
Nơi cư trú: Thôn Đ, xã H, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.
- Bị đơn: Anh Chu Văn V, sinh năm 1994 (vắng mặt);
Nơi cư trú: Thôn H, xã H, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Vi Thị H trình bày: Chị kết hôn với anh Chu Văn V ngày 25/5/2015 trước khi cưới có được tìm hiểu, tự nguyện thỏa thuận, đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến tháng 10/2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính cách vợ chồng không hợp nhau, nên trong cuộc sống vợ chồng thường bất đồng quan điểm cãi chửi nhau, không xây dựng được hạnh phúc gia đình. Vợ chồng sống ly thân và cắt đứt mọi quan hệ vợ chồng từ tháng 10/2017. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh V.
Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Chu Hải Đ sinh ngày 30/5/2015 hiện con đang ở cùng anh V và bà nội. Nay ly hôn chị và anh V thỏa thuận để anh V nuôi con, không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản: Vợ chồng không có tài sản gì, nên chị không đề nghị Tòa án giải quyết.
* Bị đơn anh Chu Văn V, mặc dù đã được Tòa án thông báo thụ lý, giao và niêm yết, các thủ tục tố tụng khác theo đúng quy định của pháp luật, nhưng anh V vẫn không phối kết hợp để làm việc.
Tại phiên toà hôm nay chị H vắng mặt có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt; anh V vắng mặt, mặc dù đã được Tòa án thông báo phiên tòa hợp lệ đến lần thứ hai.
Phát biểu của kiểm sát viên tại phiên tòa: Về việc chấp hành pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội thẩm nhân dân, chị H trong suốt quá trình thụ lý giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay đều tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay chị H vắng mặt có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt, anh V vắng mặt, mặc dù đã được Tòa án thông báo phiên tòa hợp lệ đến lần thứ hai. Do vậy đề nghị HĐXX tiếp tục xét xử vụ án theo quy định của pháp luật. Đề nghị xét xử cho chị H được ly hôn anh V; giao chị H nuôi con chung, Về cấp dưỡng nuôi con và tài sản: Chị H không đề nghị giải quyết, nên đề nghị HĐXX không xem xét giải quyết; chị H phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm. Ngoài ra còn đề nghị tuyên quyền kháng cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu đầy đủ, toàn diện các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm vấn công khai tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp, phạm vi khởi kiện, thẩm quyền giải quyết và thủ tục tố tụng: Tại đơn khởi kiện và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Vi Thị H, sinh năm 1998; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã H, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang, khởi kiện xin ly hôn anh Chu Văn V, sinh năm 1994; Nơi cư trú: Thôn H, xã H, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Nội dung: Chị H xin được ly hôn anh V, đề nghị giải quyết về con chung, không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con và tài sản. Như vậy đây là quan hệ pháp luật tranh chấp hôn nhân và gia đình, đề nghị xin được ly hôn, không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con và tài sản, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang.
Thủ tục tố tụng: Tòa án đã tiến hành đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Tại phiên tòa hôm nay chị H vắng mặt có văn bản đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, anh V vắng mặt, mặc dù đã được Tòa án thông báo phiên tòa hợp lệ đến lần thứ hai. Nên HĐXX áp dụng Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự tiếp tục xét xử vụ án theo pháp luật.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Vi Thị H kết hôn với anh Chu Văn V ngày 25/5/2015, trên cơ sở tự nguyện hợp pháp, đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Quá trình chung sống vợ chồng hoà thuận đến tháng 10/2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính cách vợ chồng không hợp nhau, nên trong cuộc sống vợ chồng thường bất đồng quan điểm dẫn đến cãi nhau, không bảo được nhau để cùng xây dựng hạnh phúc gia đình. Vợ chồng sống ly thân và cắt đứt mọi quan hệ vợ chồng từ tháng 10/2017. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn chị H thiết tha xin được ly hôn, phía anh V mặc dù đã được Tòa án thông báo thụ lý, giao và niêm yết, các thủ tục tố tụng khác theo đúng quy định của pháp luật, nhưng anh V vẫn không phối kết hợp để làm việc. HĐXX xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã diễn ra căng thẳng, tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nguyện vọng xin được ly hôn của chị H là phù hợp quy định của pháp luật. Do vậy cần xử cho chị H được ly hôn anh V để giải phóng cho cả hai bên, xét là phù hợp Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[2.2] Về nuôi con chung: Quá trình chung sống chị H và anh V sinh được một con chung là Chu Hải Đ sinh ngày 30/5/2015. Hiện cháu đang ở cùng anh V và bà nội, cháu khỏe mạnh và phát triển bình thường. Nay vì anh V không phối kết hợp đến Tòa án để làm việc, nên để bảo đảm quyền lợi mọi mặt của con trẻ cần giao chị H nuôi con. Về cấp dưỡng nuôi con chị H không đề nghị giải quyết nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết. Xét là phù hợp Điều 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[2.3] Về chia tài sản: Quá trình giải quyết vụ án chị H không đề nghị Tòa án giải quyết; phía anh V mặc dù đã được Tòa án thông báo thụ lý, giao và niêm yết, các thủ tục tố tụng khác theo đúng quy định của pháp luật, nhưng anh V vẫn không phối kết hợp để làm việc, tại phiên tòa hôm nay anh V vắng mặt, mặc dù đã được Tòa án thông báo phiên tòa hợp lệ đến lần thứ hai. Nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết. Nếu sau này có sảy ra tranh chấp về tài sản, Tòa án sẽ giải quyết bằng vụ án khác.
[2.4] Về án phí: Chị H phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật; được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp.
Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
* Áp dụng Điều 28; 35; 147; 238; 235; 264; 271; 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Điều 56; 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 26; 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
1/ Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Vi Thị H được ly hôn anh Chu Văn V.
2/ Về con chung: Xử giao chị Vi Thị H nuôi con chung là Chu Hải Đ sinh ngày 30/5/2015; không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con; anh V được quyền thăm nom con sau khi đã ly hôn, không ai được cản trở anh V thực hiện quyền này.
3/ Về án phí: Chị Vi Thị H phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm. Được trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp theo biên lai thu số AA/2019/0002966 ngày 15/4/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạng Giang.
Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7; 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận tống đạt, niêm yết án vắng mặt.
Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 51/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 51/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 16/08/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về