Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 39/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 39/2022/HNGĐ-ST NGÀY 16/02/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 16 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 150/2021/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 4 năm 2021 về “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 11 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Hồ Thị Lan A, sinh năm: 1996;

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn V, sinh năm: 1992;

Đều có địa chỉ: Khu 2, xã H, thành phố V, tỉnh Phú Thọ.

Anh Nguyễn Văn V hiện đang chấp hành án tại đội 33, phân trại số 3, Trại giam T, Bộ C, xã V, huyện H, tỉnh Phú Thọ.

(Các đương sự đều có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn, chị Hồ Thị Lan A trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn V kết hôn ngày 12/12/2016, có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Sau kết hôn vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân chính là do quan điểm sống không phù hợp, mặc dù khi đó chị đang mang thai nhưng chị và anh V đã không ai còn quan tâm gì đến ai. Từ ngày 01/7/2017 cho đến nay, anh V đi chấp hành án tại Trại giam T với tội danh "Hiếp dâm trẻ em"; chị có lên thăm hỏi, động viên nhưng tình cảm vợ chồng không thay đổi trong khi cuộc sống với gia đình nhà chồng thường xuyên xảy ra va chạm. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn chị đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì cho chị được ly hôn với anh V.

Về con chung: Chị A khai chị và anh V có 01 (một) con chung là Nguyễn Hồ Khánh L, sinh ngày: 15/10/2017. Cháu L từ nhỏ đã sống cùng chị nên ly hôn chị xin được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu và không yêu cầu anh V phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

Về tài sản chung, công nợ chung, công sức đóng góp: Chị A không đề nghị Tòa án xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị A tự nguyện chịu theo quy định của pháp luật.

Bị đơn, anh Nguyễn Văn V có lời khai thể hiện: Anh V xác nhận về thời gian kết hôn, thời gian sống chung, mâu thuẫn gia đình, con chung, cấp dưỡng nuôi con chung, tài sản chung, công nợ chung, công sức đóng góp đúng như chị A trình bày. Anh đồng ý với toàn bộ quan điểm của chị A và không bổ sung gì khác.

Ngày 27/10/2021 anh Nguyễn Văn V có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải gửi đến Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì vào ngày 02/11/2021, theo quy định tại khoản 4 Điều 204 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 Thẩm phán đã tiến hành lập Biên bản không tiến hành hòa giải được.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì đã có Quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ, Quyết định ủy thác thu thập chứng cứ và các Công văn "về việc phối hợp giải quyết vụ án" gửi đến Trại giam T. Tại Công văn số: 1990/CV-TL(TS) ngày 10/10/2021 của Trại giam Tthể hiện: Anh Nguyễn Văn V bị bắt từ ngày 01/7/2017 với tội danh "Hiếp dâm trẻ em", án phạt 12 năm, hiện đang chấp hành án tại đội 33, phân trại số 3, Trại giam T. Ngoài ra, Trại giam T đã thực hiện giao cho anh V các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn xuất trình cùng các văn bản tố tụng của Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì và xác nhận vào Bản tự khai, Đơn đề nghị không tiến hành hòa giải, Đơn xin xét xử vắng mặt của anh Nguyễn Văn V theo đúng quy định.

Tại phiên tòa hôm nay các đương sự đều có đơn xin xét xử vắng mặt hợp lệ nên vụ án được xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.

Phát biểu tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ có quan điểm và đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Về việc tuân thủ pháp luật: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết, xét xử vụ án đã thực hiện đúng theo quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

+ Về việc giải quyết vụ án:

Cho chị A được ly hôn anh V. Giao cho chị A được quyền chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Hồ Khánh L, sinh ngày: 15/10/2017 đến khi thành niên. Anh V không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị A do chị A không yêu cầu. Không xem xét đến tài sản chung, công nợ chung và công sức đóng góp của chị A và anh V. Chị A phải chịu án phí theo quy định.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được công khai tại phiên tòa;

Trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ của các đương sự và ý kiến của kiểm sát viên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Do mâu thuẫn gia đình, quan điểm sống không còn phù hợp, mục đích hôn nhân không còn, chị Hồ Thị Lan A đã có đơn xin ly hôn anh Nguyễn Văn V nên theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 đây là vụ án “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình”.

[2]. Về thẩm quyền giải quyết: Xét bị đơn anh Nguyễn Văn V có đăng ký hộ khẩu thường trú tại Khu 2, xã H, thành phố V, tỉnh Phú Thọ nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.

[3]. Về trình tự tố tụng: Thẩm phán đã thực hiện các biện pháp tống đạt, mở phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải, đồng thời đã tiến hành các thủ tục tố tụng theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Do các đương sự đều có đơn xin xét xử vắng mặt hợp lệ nên căn cứ khoản 1 Điều 228 và điểm a, b khoản 1 Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là phù hợp.

[4]. Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Hồ Thị Lan A nhận thấy:

Chị Hồ Thị Lan A và anh Nguyễn Văn V kết hôn hợp pháp, sau kết hôn vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do quan điểm sống không phù hợp. Từ ngày 01/7/2017 cho đến nay, anh V đi chấp hành án tại Trại giam Tvới tội danh "Hiếp dâm trẻ em", vợ chồng không còn quan tâm gì đến nhau. Tại lời khai của mình anh Nguyễn Văn V cũng có quan điểm đồng ý ly hôn với chị Hồ Thị Lan A nhung do đang chấp hành án nên anh không thể đến Tòa làm việc được. Như vậy, cần khẳng định mâu thuẫn giữa chị Hồ Thị Lan A và anh Nguyễn Văn V đã vô cùng sâu sắc, mục đích hôn nhân không đạt được, Hội đồng xét xử thấy yêu cầu xin ly hôn của chị Lan A là có căn cứ, cần được chấp nhận.

[5]. Về con chung: Chị Hồ Thị Lan A và anh Nguyễn Văn V đều xác định vợ chồng có 01 (một) con chung là Nguyễn Hồ Khánh L, sinh ngày: 15/10/2017. Xét cháu L từ nhỏ ở cùng chị Lan A, do chị Lan A chăm sóc và nuôi dưỡng, hiện cháu L đang có cuộc sống ổn định; bản thân anh V cũng có quan điểm giao con chung cho chị Lan A chăm sóc nên cần giao cho chị Lan A được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu L là phù hợp. Anh V không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Lan A do chị Lan A không yêu cầu.

[6]. Về tài sản chung, công nợ chung, công sức đóng góp: Chị Hồ Thị Lan A và anh Nguyễn Văn V không đề nghị nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[7]. Về án phí: Chị Hồ Thị Lan A phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

Quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ và phù hợp, cần được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 228, điểm a và b khoản 1 Điều 238, Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015,

[1]. Cho chị Hồ Thị Lan A được ly hôn anh Nguyễn Văn V.

[2]. Về con chung: Giao chị Hồ Thị Lan A được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung là cháu Nguyễn Hồ Khánh L, sinh ngày: 15/10/2017 kể từ tháng 12/2021 cho đến khi thành niên hoặc hoặc đến khi có quyết định khác của Tòa án.

[3]. Về cấp dưỡng: Anh Nguyễn Văn V không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Hồ Thị Lan A do chị Hồ Thị Lan A không yêu cầu.

Anh Nguyễn Văn V có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

[4]. Về án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

Chị Hồ Thị Lan A phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Xác nhận chị Hồ Thị Lan A đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2020/0000218 ngày 19/4/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Việt Trì.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

294
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 39/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:39/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Việt Trì - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;