Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 39/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 39/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/07/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 29 tháng 7 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 44/2021/TLST – HNGĐ ngày 22 tháng 02 năm 2021, về việc: Hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2021/QĐXX – ST ngày 22 tháng 6 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trịnh Thị T, sinh năm: 1995 Địa chỉ: Thôn 1, xã T, huyện T , tỉnh Thanh Hóa

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm: 1988 HKTT: Xóm 3, xã T, huyện T,tỉnh Thanh Hóa. Các đương sự đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Theo đơn khởi kiện ngày 18/02/2021, bản tự khai và lời khai tại Tòa án, nguyên đơn chị Trịnh Thị T trình bày:

- Hôn nhân: Chị Trịnh Thị T và anh Nguyễn Văn H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn do Ủy ban nhân dân xã Thọ N , huyện T cấp ngày 20/7/2013.

Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống tại thôn 3, xã T, huyện T. Quá trình chung sống thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng không hợp tính nhau nên trong cuộc sống luôn xảy ra bất đồng qua điểm, sống không có hạnh phúc. Đến năm 2019 mâu thuẫn trầm trọng, chị T về nhà mẹ đẻ sống, vợ chồng đã sống ly thân từ đó đến nay, không quan tâm đến nhau, cuộc sống của ai người đó tự lo.

Nay chị T xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Văn S, sinh ngày 22/5/2014, kể từ khi vợ chồng ly thân cháu sống cùng chị T. Nay cháu S đang còn nhỏ cần sự chăm sóc của mẹ nên nguyện vọng của chị T là được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung.

Hiện nay chị đang làm công nhân lương bình quân mỗi tháng 6.500.000đ nên có đủ điều kiện để nuôi dưỡng con chung.

* Quá trình Tòa án tiến hành giải quyết vụ án, đã tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng cho anh Nguyễn Văn H, anh H không có bản tự khai và cũng không tham gia tố tụng tại Tòa án, do đó Tòa án không ghi được ý kiến của anh đối với yêu cầu khởi kiện của chị T và cũng không tiến hành được phiên hòa giải theo quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự.

* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa.

* Về tố tụng:

Quá trình nhận hồ sơ, thụ lý vụ án và giải quyết vụ án Thẩm phán đã chấp hành và tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử và Thư ký đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Quá trình giải quyết vụ án những người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình đúng theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

* Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử.

- Hôn nhân: Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị Trịnh Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Văn H - Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Văn S, sinh ngày 22/5/2014 Căn cứ vào Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao cháu S cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng.

Chị T không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét.

- Về tài sản: Chị T không yêu cầu nên không xem xét.

- Về án phí: Chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Tòa án đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa cho chị Trịnh Thị T và anh Nguyễn Văn H theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa hôm nay, anh H vắng mặt lần thứ 2 không có lý do. Chị T có đơn xin xét xử vắng mặt Căn cứ vào khoản 2 điều 227, khoản 1, 3 điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về hôn nhân:

Chị Trịnh Thị T và anh Nguyễn Văn H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn do Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa cấp ngày 20/7/2013, như vậy quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh H là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình vợ chồng chung sống thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do quan điểm, lối sống, cách suy nghĩ của vợ chồng không hòa hợp, đến năm 2019 mâu thuẫn trầm trọng, chị T về nhà mẹ đẻ sống, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay, không ai quan tâm đến nhau, cuộc sống của ai người đó tự lo. Điều đó chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài.

Chị Trịnh Thị T làm đơn đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn. Xét thấy yêu cầu ly hôn của chị T là có cơ sở, căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Trịnh Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Văn H.

[3] Về con chung:

Vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Văn S, sinh ngày 22/5/2014, Nay ly hôn chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

Xét thấy yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung của chị T là chính đáng, vì kể từ khi vợ chồng sống ly thân cháu S sống cùng mẹ, điều kiện ăn ở, sức khỏe và học tập của cháu đều tốt . Hiện tại chị T có công việc ổn định, thu nhập bình quân mỗi tháng là 6.500.000đ.

Quá trình Tòa án tiến hành giải quyết vụ án anh H không có ý kiến gì đối với yêu cầu được nuôi con chung của chị T, do đó để không làm sáo trộn cuộc sống của cháu S, giao cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng cháu S là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản:

Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên :

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, khoản 2 điều 227, khoản 1,3 điều 228 , Điều 271, Điều 273 BLTTDS; Điều 56, 81,82,83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu nộp, quản lý về án phí, lệ phí Tòa án.

- Về hôn nhân: Xử cho chị Trịnh Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Văn H 

- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Văn S, sinh ngày 22/5/2014 cho chị Trịnh Thị T trực tiếp nuôi dưỡng.

Anh Nguyễn Văn H được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

Trong quá trình nuôi dưỡng nếu chị T không còn đủ điều kiện trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục con chung thì anh H có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

- Về án phí: Chị Trịnh Thị T phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền đã nộp tạm ứng là 300.000đ tại biên lai số 0013469 ngày 19/2/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T.

Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc niêm yết bản án. Viện kiểm sát được quyền kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 39/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:39/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Triệu Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;