TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 38/HNGĐ-ST NGÀY 28/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 28 tháng 7 năm 2022, tại phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy xét xử sơ thẩm, công khai vụ án thụ lý số 98/2022/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 6 năm 2022 về việc xin ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2022/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Lý Thị H, sinh năm 1978.
Bị đơn: Anh Vũ Đình D, sinh năm 1974 Đều trú tại: thôn M, xã N, huyện Y, tỉnh Thái Bình (Chị H và anh D đều có đơn xin xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện xin ly hôn và trong quá trình giải quyết vụ án, đơn xin xử vắng mặt chị H trình bày:
Chị và anh D tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn năm 2007 tại UBND xã N, Y, tỉnh Thái Bình, sau khi kết hôn anh chị chung sống và làm ăn tại địa phương. Trong quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp, mặt khác anh D có quan hệ với người phụ nữ khác, vợ chồng đã sống ly thân đã 05 năm nay, mỗi người một nơi, không ai còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, có chung sống với nhau cũng không có hạnh phúc nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh D.
Về con chung: Chị và anh D có 01 con chung là Vũ Đình Anh T, sinh ngày 25/3/2009, hiện con chung đang ở với anh D, chị đồng ý giao con chung cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng, chị có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh D mỗi tháng 1.000.000 đồng, chị có quyền đi lại thăm nom con chung.
Về tài sản chung: Chị xác định, chị và anh D không có tài sản chung, không có nợ chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết.
Tại ản tự khai và đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh D trình bày:
Anh và chị H tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn năm 2007 tại UBND xã N, huyện Y, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống làm ăn tại địa phương, do tính tình không hợp nên vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng đã sống ly thân mỗi người một nơi, không ai còn quan tâm gì đến nhau, nay chị H xin ly hôn anh đồng ý Về con chung: Anh và chị H có 01 con chung là Vũ Đình Anh T, sinh ngày 25/3/2009, hiện con chung đang ở với anh, anh đề nghị được trực tiếp nuôi con chung và yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con chung cho anh mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi con chung thành niên.
Về tài sản chung: Anh xác định anh và chị H không có tài sản chung, không có nợ chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết.
Anh hiện phải đi làm, điều kiện đi lại khó khăn nên đề nghị Tòa án giải quyết và xét xử vắng mặt anh, anh không có ý kiến gì.
Do vụ án không tiến hành hòa giải được nên đưa ra xét xử theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Các đương sự đều có đơn xin xử vắng mặt, vì vậy căn cứ Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Việc kết hôn giữa chị H và anh D là hợp pháp, trong quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nhưng cả hai đều không có biện pháp hàn gắn hạnh phúc gia đình, dẫn đến mâu thuẫn trở nên trầm trọng, hiện vợ chồng đã sống ly thân 05 năm nay, mỗi người một nơi, không ai còn quan tâm gì đến nhau nữa. Như vậy, có căn cứ xác định vợ chồng chị H và anh D đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ vợ chồng, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình xử cho chị H được ly hôn anh D.
[3]. Về con chung: Chị H và anh D có 01 con chung là Vũ Đình Anh T, sinh ngày 25/3/2009, hai bên thống nhất giao con cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng, mặt khác cháu T đã trên 07 tuổi và có đơn xin ở với bố, anh D yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con chung cho anh 1.000.000 đồng một tháng là có cơ sở nên cần chấp nhận.
[4]. Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra giải quyết.
[5]. Về án phí: Chị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 51, 53, 54, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 28, 35, 39, 147, 228, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về Án phí, Lệ phí Toà án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Lý Thị H được ly hôn anh Vũ Đình D
2. Về con chung: Giao con chung là Vũ Đình Anh T, sinh ngày 25/3/2009 cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng, chị H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh D mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi con chung thành niên, thời gian cấp dưỡng tính từ ngày ản án có hiệu lực pháp luật, chị H có quyền đi lại thăm nom, giáo dục con chung, không ai được ngăn cản. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con được đặt ra giải quyết khi có yêu cầu.
3. Về tài sản chung: Không đặt ra giải quyết.
4. Về án phí: Chị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm và phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con. Chuyển số tiền 300.000 đồng chị H đã nộp tạm ứng án phí tại biên lai số 0004227 ngày 27/6/2022 tại Chi cục Thi hành án huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình sang thi hành án phí, chị H còn phải chịu 300.000 án phí.
5.Về quyền kháng cáo: Chị H và anh D có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 38/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 38/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/07/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về