Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 35/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 35/2021/HNGĐ-ST NGÀY 13/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 13 tháng 9 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, xét xử công khai sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 72/2021/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 6 năm 2021 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2021/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Mai Thị T, sinh năm 1983.

Địa chỉ: Thôn C, xã H, huyện H, tỉnh T, có mặt.

2. Bị đơn: Anh Vũ Trường T, sinh năm 1978.

Địa chỉ: Thôn C, xã H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 31/5/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Mai Thị T trình bày: Giữa nguyên đơn và bị đơn là anh Vũ Trường T tự nguyện tìm hiểu và chung sống với nhau từ năm 2006 nhưng đến ngày 01/6/2007 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh T. Vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2008 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống nên thường xuyên cãi cọ, mắng chửi nhau. Chị T và anh T đã sống ly thân từ đầu năm 2021 cho đến nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị T đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Vũ Trường T.

Về con chung: Chị T khai vợ chồng có hai con chung, các cháu tên là Vũ Thị Tuyết M, sinh ngày 26/7/2007 và cháu Vũ Thị Châu A, sinh ngày 13/11/2016. Chị T đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Châu A để anh T nuôi dưỡng cháu Tuyết M, chị T và anh T không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng ai.

Về tài sản: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong bản tự khai ngày 05/7/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là anh Vũ Trường T trình bày: Giữa bị đơn và nguyên đơn là Mai Thị T tự nguyện tìm hiểu và chung sống với nhau từ năm 2006 nhưng đến ngày 01/6/2007 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh T. Vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2008 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống nên thường xuyên cãi cọ, mắng chửi nhau. Anh và chị T đã sống ly thân từ đầu năm 2021 cho đến nay. Nay chị T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn anh Thành không đồng ý.

Về con chung: Anh T khai vợ chồng có hai con chung, các cháu tên là Vũ Thị Tuyết M, sinh ngày 26/7/2007 và cháu Vũ Thị Châu A, sinh ngày 13/11/2016. Nếu Tòa án giải quyết cho ly hôn, anh T đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Tuyết M để chị Tuyết nuôi dưỡng cháu Châu A, anh T và chị T không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng ai.

Về tài sản: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Quá trình nhận đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết, quyết định đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đương sự đã được thực hiện các quyền của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Chị T đề nghị Toà án giải quyết ly hôn với anh T, đề nghị giao cháu Châu A cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Tuyết M cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, chị T và anh T không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng ai là phù hợp với quy định tại Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Anh Vũ Trường T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng anh T vẫn không có mặt, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh T là phù hợp với quy định tại khoản 2, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về hôn nhân: Chị Mai Thị T và anh Vũ Trường T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, như vậy là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống nên thường xuyên cãi cọ mắng chửi nhau. Kết quả xác minh ngày 08/6/2021 có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã H cho thấy: theo chị T báo cáo với chính quyền địa phương, nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị T và anh T là do anh Thành có quan hệ ngoại tình và đánh đập chị T. Như vậy, trong cuộc sống vợ chồng giữa chị T và anh T luôn xảy ra mâu thuẫn, xung đột dẫn đến vợ chồng sống ly thân, chứng tỏ đời sống chung của vợ chồng đã trở nên trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Cần căn cứ khoản 1, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình giải quyết cho chị T được ly hôn anh T là phù hợp.

[3]. Về con chung: Chị T và anh T thừa nhận vợ chồng có 02 con chung, các cháu tên là Vũ Thị Tuyết M, sinh ngày 26/7/2007 và cháu Vũ Thị Châu A, sinh ngày 13/11/2016. Chị Tuyết có nguyện vọng nuôi dưỡng cháu Châu Anh, do cháu Châu Anh còn nhỏ cần sự chăm sóc của mẹ. Cháu Tuyết M có nguyện vọng được ở với bố, do đó giao cháu Châu A cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Tuyết M cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, chị T và anh T không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng ai là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

[4]. Về tài sản: Chị T và anh T không yêu cầu Toà án giải quyết, nên miễn xét.

[5]. Về án phí: Chị Mai Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1, Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 6; khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Mai Thị T và anh Vũ Trường T.

2. Về con chung: Công nhận các cháu Vũ Thị Tuyết M, sinh ngày 26/7/2007 và cháu Vũ Thị Châu A, sinh ngày 13/11/2016 là con chung của chị T và anh T. Giao cháu Châu A cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Tuyết M cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, chị T và anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị T và anh T có quyền đi lại, thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Chị T, anh T không được lạm dụng việc thăm nom con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của người trực tiếp nuôi con.

3. Về án phí: Chị Mai Thị T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị T đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2019/0009362 ngày 03/6/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Chị T đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

39
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 35/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:35/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;