TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH PHÚ THỌ
BẢN ÁN 30/2022/HNGĐ-ST NGÀY 12/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 12 tháng 8 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 98/2022/TLST-HNGĐ ngày 17/3/2022 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 7 tháng 7 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 29/2022/QĐHPT - HNGĐ ngày 29 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Th, Sinh năm 1996
Bị đơn: Anh Dương Văn Tr, Sinh năm 1992 Đều ĐKHKTT tại: Tổ 20, khu L, phường B, thành phố V, tỉnh Phú Thọ.
Chỗ ở hiện nay của chị Th: Tổ 22B, phố T, phường TC, thành phố V, tỉnh Phú Thọ.
(Chị Th có mặt, anh Tr vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 23/12/2021, bản tự khai ngày 18/3/2022, quá trình làm việc tại Tòa án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị Th trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Ngày 25/12/2018 chị Nguyễn Thị Th và anh Dương Văn Tr đăng ký kết hôn tại UBND phường B, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống cùng gia đình anh Tr tại Tổ 20, khu L, phường B, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến khoảng đầu năm 2022 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh Tr nợ nần rồi bỏ nhà đi làm ăn xa. Chị Th đã chuyển về nhà bố mẹ đẻ sống từ tháng 02/2022 tại Tổ 22B, phố T, phường TC, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Từ đó đến nay, hai bên không có liên lạc gì và cũng không quan tâm đến nhau nữa. Nay chị Th nhận thấy tình cảm với anh Tr không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Tr.
Về con chung, tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Chị Th trình bày vợ chồng không có, ly hôn chị không có đề nghị gì.
Phía bị đơn, anh Dương Văn Tr đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Tòa án để làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, không tham gia phiên tòa.
Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã xác minh tại địa phương về tình trạng hôn nhân giữa chị Th và anh Tr, lấy lời khai của bố đẻ anh Tr là ông Dương Công C. Tại biên bản lấy lời khai ngày 15/6/2022 của ông Dương Công C xác định: Sau khi vợ chồng chị Th, anh Tr kết hôn thì hai vợ chồng sống cùng gia đình ông Chiến. Cuộc sống chung của vợ chồng chị Th, anh Tr bình thường không có mâu thuẫn lớn mà chỉ có mâu thuẫn về kinh tế vào đầu năm 2022 do anh Tr nợ nần, sau đó anh Tr đi làm ăn xa nhà, chị Th chuyển ra khỏi nhà ông Chiến từ tháng 02/2022. Gia đình ông Chiến đã khuyên giải nhưng chị Th vẫn kiên quyết xin ly hôn anh Tr. Chị Th, anh Tr không có con chung. Ông Chiến đã thông báo lại cho anh Tr về việc Tòa án đến nhà làm việc và thông báo cho anh Tr về các văn bản tố tụng mà Tòa án tống đạt nhưng anh Tr không có ý kiến gì.
Theo kết quả xác minh ngày 15/6/2022 tại khu dân cư cùng với trưởng khu L, phường B, thành phố V, tỉnh Phú Thọ là ông Nguyễn Văn Tr: Ông Tr xác nhận chị Th, anh Tr có hộ khẩu thường trú tại Tổ 20, khu L, phường B, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Quá trình vợ chồng chị Th, anh Tr chung sống tại địa phương, ông Tr có biết việc vợ chồng có mâu thuẫn nhưng ông Tr không nắm cụ thể, ông Tr chỉ biết tháng 02/2022, chị Th đã chuyển về nhà bố mẹ đẻ, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay, hai vợ chồng không có con chung. Đại diện khu dân cư đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát:
Về việc tuân theo pháp luật: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Thẩm phán đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của pháp luật, không có vi phạm gì. Các đương sự: Nguyên đơn đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn là đúng theo quy định của pháp luật.
Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Th được ly hôn anh Dương Văn Tr.
Về con chung, tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Chị Th xác định vợ chồng không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Về án phí: Chị Th phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Ngày 17/02/2022 chị Nguyễn Thị Th nộp đơn khởi kiện về việc ly hôn với anh Dương Văn Tr, đây là tranh chấp Hôn nhân gia đình được Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Phú Thọ thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về sự vắng mặt của các đương sự: Anh Dương Văn Tr được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên đây là vụ án không thể tiến hành hòa giải được, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh Tr là phù hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân:
Chị Nguyễn Thị Th và anh Dương Văn Tr đăng ký kết hôn ngày 25/12/2018 tại UBND phường B, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống cùng gia đình anh Tr tại Tổ 20, khu L, phường B, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Trong cuộc sống vợ chồng bình thường cho đến đầu năm 2022 thì phát sinh mâu thuẫn vì kinh tế do anh Tr nợ nần và sau đó anh Tr đi làm xa nhà. Tháng 02/2022 chị Th đã về nhà bố mẹ đẻ ở. Quá trình giải quyết vụ án anh Tr không đến Tòa án làm việc nên không có quan điểm trình bày gì về việc ly hôn. Căn cứ vào lời khai của ông Dương Công Ch là bố đẻ anh Tr và qua kết quả xác minh tình trạng hôn nhân tại địa phương nơi anh Tr, chị Th cư trú thấy phù hợp với lời trình bày của chị Th. Hội đồng xét xử thấy rằng có đủ căn cứ khẳng định chị Th và anh Tr đã không còn chung sống với nhau một thời gian dài, giữa hai vợ chồng không còn yêu Th, quan tâm đến nhau, mâu thuẫn cũng đã được hai bên gia đình, chính quyền địa phương khuyên giải nhưng không có kết quả. Do vậy tình trạng hôn nhân giữa chị Th và anh Tr đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Trong quá trình giải quyết vụ án anh Tr không đến Tòa án để làm việc và hòa giải, không trình bày quan điểm gì có thể thấy anh Tr không có mong muốn đoàn tụ, không có nguyện vọng để giải quyết mâu thuẫn, hàn gắn tình cảm vợ chồng. Việc chị Th xin ly hôn với anh Tr là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận là phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
[3] Về con chung, tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Xét thấy chị Nguyễn Thị Th xác định không có, anh Dương Văn Tr vắng mặt tại phiên tòa. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên cần chấp nhận.
[5] Về án phí: Chị Th phải nộp tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[6] Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1.Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Th đối với anh Dương Văn Tr.
Xử cho chị Nguyễn Thị Th được ly hôn anh Dương Văn Tr.
2. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Th phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Xác nhận chị Th đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu số 0009234 ngày 17/3/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố V, tỉnh Phú Thọ.
3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại trụ sở UBND xã nơi đương sự thường trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.
Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 30/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 30/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Việt Trì - Phú Thọ |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 12/08/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về