Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 29/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 29/2022/HNGĐ-ST NGÀY 12/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 12 tháng 8 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 179/2022/TLST-HNGĐ ngày 09/5/2022 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 7 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Đào Thị Th, sinh năm 1991

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn B, sinh năm 1991 Đều ĐKHKTT: Khu 4, xã K, thành phố V, tỉnh Phú Thọ.

Chỗ ở hiện nay của chị Th: Khu 9, xã K, thành phố V, tỉnh Phú Thọ.

(Chị Th có mặt, anh B vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 21/4/2022, bản tự khai ngày 24/5/2022, biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn chị Đào Thị Th trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ngày 17/12/2010, chị Đào Thị Th và anh Nguyễn Văn B đăng ký kết hôn tại UBND xã K, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến khoảng năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu do trong cuộc sống hàng ngày vợ chồng bất đồng quan điểm sống, có lần hai bên đã xảy ra xô xát, vợ chồng cũng đã nhiều lần ngồi lại với nhau trao đổi, tìm cách giải quyết nhưng vẫn không thể hòa thuận được với nhau, mâu thuẫn càng trở nên căng thẳng. Đến đầu năm 2016, chị Th đi nước ngoài lao động, sau đó đến cuối năm 2021 chị Th về nước và từ đó chị Th ở nhà bố mẹ đẻ tại Khu 9 xã K, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Hai bên sống ly thấn từ đó cho đến nay, mỗi người một nơi không ai còn quan tâm đến nhau. Nay chị Th nhận thấy hôn nhân không hạnh phúc, tình cảm với anh B không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh B.

Về con chung: Chị Th trình bày vợ chồng có 02 con chung là cháu Nguyễn Thị Thu Phương, sinh ngày 07/11/2011 và cháu Nguyễn Thành Tr, sinh ngày 06/8/2014. Khi ly hôn, chị Th xin được nuôi cả 02 con chung, nếu không được chị Th xin nuôi cháu Nguyễn Thị Thu P, sinh ngày 07/11/2011. Tại phiên tòa hôm nay, chị Th xin được nuôi cháu Nguyễn Thành Tr, sinh ngày 06/8/2014 và không đề nghị anh B cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Chị Th trình bày vợ chồng không có, ly hôn chị không có đề nghị gì.

Tại bản tự khai ngày 24/5/2022 và quá trình làm việc tại Tòa án bị đơn anh Nguyễn Văn B trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh B xác nhận về thời gian, địa điểm đăng ký kết hôn của vợ chồng như chị Th trình bày là đúng. Tuy nhiên, anh B xác định cuộc sống vợ chồng không có mâu thuẫn gì lớn, từ năm 2016 chị Th đi nước ngoài lao động đến năm 2021 về nước thì chị Th chuyển về nhà bố mẹ đẻ, vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Anh B nhận thấy vẫn còn tình cảm với chị Th nên anh B đề nghị Tòa án cho anh chị thời gian để vợ chồng hòa giải mâu thuẫn đến ngày 15/6/2022. Nếu sau đó chị Th vẫn kiên quyết xin ly hôn, anh B đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Anh B trình bày vợ chồng có 02 con chung là cháu Nguyễn Thị Thu Phương, sinh ngày 07/11/2011 và cháu Nguyễn Thành Trung, sinh ngày 06/8/2014. Khi ly hôn, anh B xin được nuôi cháu Nguyễn Thị Thu Phương và không đề nghị chị Th cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Anh B trình bày vợ chồng không có, ly hôn anh không có đề nghị gì.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã xác minh tại địa phương về tình trạng hôn nhân giữa chị Th và anh B. Theo kết quả xác minh ngày 16/6/2022 tại khu dân cư cùng với trưởng khu 4, xã K là ông Nguyễn Vi H. Ông Hùng xác nhận chị Th, anh B có hộ khẩu thường trú khu 4, xã K, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Cuộc sống của vợ chồng chị Th, anh B tại địa phương, ông H không nắm cụ thể, ông H chỉ biết từ khoảng năm 2016 chị Th đi nước ngoài đến năm 2021 chị Th về nước thì sau đó vợ chồng cũng sống ly thân từ đó cho đến nay. Việc chị Th xin ly hôn anh B, đại diện khu dân cư đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát:

Về việc tuân theo pháp luật: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Thẩm phán đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của pháp luật, không có vi phạm gì. Các đương sự: Nguyên đơn đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn là đúng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đào Thị Th được ly hôn anh Nguyễn Văn B.

Về con chung: Đề nghị giao cho chị Th trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thành Tr, sinh ngày 06/8/2014 cho đến khi cháu Tr thành niên và anh B trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thị Thu P, sinh ngày 07/11/2011 cho đến khi cháu P thành niên. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cho ai.

Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Chị Th và anh B xác định vợ chồng không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị Th phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ngày 21/04/2022 chị Đào Thị Th nộp đơn khởi kiện về việc ly hôn với anh Nguyễn Văn B, đây là tranh chấp Hôn nhân gia đình được Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Phú Thọ thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về sự vắng mặt của đương sự: Anh Nguyễn Văn B được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên đây là vụ án không thể tiến hành hòa giải được, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh B là phù hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Chị Đào Thị Th và anh Nguyễn Văn B đăng ký kết hôn ngày 17/12/2010 tại UBND xã K, thành phố V, tỉnh Phú Thọ đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại xã K, thành phố V, tỉnh Phú Thọ, tình cảm vợ chồng bước đầu hòa thuận, hạnh phúc. Đến khoảng năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do trong cuộc sống hàng ngày vợ chồng bất đồng quan điểm sống, mâu thuẫn không hòa giải được, có lần hai bên đã xảy ra xô xát. Năm 2106 chị Th đi lao động nước ngoài, đến cuối năm 2021 chị Th về nước, khi về nước chị Th và anh B không sống cùng nhau, chị Th đã về hẳn nhà bố mẹ đẻ ở tại khu 9, xã K, thành phố V để ở từ đó cho đến nay. Phía Anh B nhận thấy vẫn còn tình cảm với chị Th nên anh B đề nghị Tòa án cho anh chị thời gian để vợ chồng hòa giải mâu thuẫn đến ngày 15/6/2022. Nếu sau đó chị Th vẫn kiên quyết xin ly hôn, anh B đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Đến ngày 15/6/2022, chị Th và anh B có mặt tại Tòa án để hòa giải nhưng vợ chồng vẫn không khắc phục được mâu thuẫn. Qua kết quả xác minh tình trạng hôn nhân tại khu hành chính nơi anh chị cư trú thấy phù hợp với lời trình bày của chị Th, anh B. Hội đồng xét xử thấy rằng có đủ căn cứ khẳng định chị Th và anh B đã không còn chung sống với nhau một thời gian dài, giữa hai vợ chồng không còn yêu thương, quan tâm đến nhau, mâu thuẫn cũng đã được hai bên gia đình, chính quyền địa phương khuyên giải nhưng không có kết quả. Do vậy tình trạng hôn nhân giữa chị Th và anh B đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Trong quá trình giải quyết vụ án anh B có mong muốn đoàn tụ, có nguyện vọng để giải quyết mâu thuẫn, hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tuy nhiên không thể hàn gắn được, vì vậy việc chị Th xin ly hôn với anh B là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận là phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Hai bên thống nhất xác định vợ chồng có 02 con chung là: Nguyễn Thị Thu Phương, sinh ngày 07/11/2011 và Nguyễn Thành Trung, sinh ngày 06/8/2014.

Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Th xin được nuôi cả 02 con chung, nếu không được chị Th xin nuôi cháu Nguyễn Thị Thu P, sinh ngày 07/11/2011. Tại phiên tòa hôm nay, chị Th xin được nuôi cháu Nguyễn Thành Tr, sinh ngày 06/8/2014. Anh B không có mặt tại phiên tòa, tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án anh B xin được nuôi cháu Nguyễn Thị Thu P, sinh ngày 07/11/2011. Cả hai bên đều không đề nghị cấp dưỡng nuôi con chung.

Xét về điều kiện chăm sóc và nuôi dạy con chung của hai bên đương sự thấy rằng: Chị Th và anh B có điều kiện ngang nhau trong việc chăm sóc nuôi dạy con chung, hai bên đương sự đều là lao động phổ thông, vì vậy việc giao cho mỗi người trực tiếp, chăm sóc nuôi dưỡng một con chung là phù hợp với nguyện vọng của hai bên đương sự và không làm ảnh hưởng đến đời sống và sự phát triển B thường của các con chung. Mặt khác cũng phù hợp với nguyện vọng của các con chung.

Do vậy Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cho chị Th được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng con chung là cháu Nguyễn Thành Tr, sinh ngày 06/8/2014, giao cho anh Nguyễn Văn B được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng con chung là cháu Nguyễn Thị Thu P , sinh ngày 07/11/2011 đến khi cháu Trung và cháu Phương thành niên là phù hợp với tình hình thực tế của cả hai bên và phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

Đối với việc cấp dưỡng nuôi con HĐXX xét thấy giao cho mỗi người nuôi con thì hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung là phù hợp.

[4] Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Quá trình giải quyết vụ án chị Th và anh B đều xác định vợ chồng không có, ly hôn anh, chị không có đề nghị gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên cần chấp nhận.

[6] Về án phí: Chị Đào Thị Th phải nộp tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1.Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Đào Thị Th đối với anh Nguyễn Văn B.

Xử cho chị Đào Thị Th được ly hôn anh Nguyễn Văn B.

2. Về con chung: Giao cho chị Th được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng con chung là cháu Nguyễn Thành Trung, sinh ngày 06/8/2014, giao cho anh Nguyễn Văn B được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng con chung là cháu Nguyễn Thị Thu P, sinh ngày 07/11/2011 đến khi cháu Tr và cháu P thành niên. Hai bên không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Đào Thị Th phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Xác nhận chị Th đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu số: AA/2020/0009376 ngày 06/5/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố V, tỉnh Phú Thọ.

4. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại trụ sở UBND xã nơi đương sự thường trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 29/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:29/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Việt Trì - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;